Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.61 MB, 187 trang )
22
Vào thế kỷ XVI giọng hát của phụ nữ hầu như không được sử dụng
trong nghệ thuật âm nhạc cũng như khơng được coi là thích hợp trong việc ca
hát. Đến giữa thế kỷ XVI thuật ngữ Soprano mới chỉ được sử dụng để gọi
giọng hát của những cậu bé hoặc các giọng Castrato (giọng nam bị thiến từ
nhỏ để giữ được âm sắc khi đã lớn lên). Cuối thế kỷ XVI tại Ferrara một
thành phố thuộc Emilie - Roma nước Ý mới bắt đầu có sự phát triển đặc biệt
về giọng hát nữ, các nhà soạn nhạc nơi đây cũng đã khai thác nhiều nét đặc
sắc ở giọng này và đưa vào trong tác phẩm của mình.
Giọng Soprano có được vị trí quan trọng sớm nhất trong vở opera
“Ariama” của nhạc sĩ Monteverdi (1608). Các nhà soạn nhạc đã đánh giá cao
sự khác biệt giữa giọng hát nữ và giọng castrato hay Falsetto (giọng gió,
giọng óc) trước đó. Bằng vẻ đẹp của âm sắc và sự linh hoạt của giọng, cùng
những khả năng đáp ứng về tầm cỡ cao của giọng nữ. Hầu hết phần solo trong
các tác phẩm của những tác giả giai đoạn này đều dành viết cho giọng nữ để
nhằm phát triển và làm nổi bật những đặc tính của loại giọng này. Tuy nhiên
trong âm nhạc của nhà thờ, việc cấm giọng hát nữ vẫn duy trì có nghĩa là các
bè cao trong nhà thờ vẫn được hát bởi các giọng castrato hoặc Falsettists
(giọng đầu).
Có thể thấy, giọng Castrato có vai trò lịch sử đối với sự hình thành
giọng Soprano. Thế kỷ XVIII, Castrato đã đưa phong cách bel canto đi vào
con đường kỹ thuật thuần túy. Tuy nhiên, đầu thế kỷ XIX, các ca sĩ Castrato
xuất hiện thưa dần trên sân khấu opera, họ lùi vào hát hợp xướng nhà thờ.
Giáo hoàng Leo XVIII (1878-1903) đã ra lệnh cấm hoạn trẻ em làm ca sĩ.
Những ca sĩ castrato nổi tiếng như: A.M. Bermacchi (1685-1756), Baldassare
Ferri (1610-1680), Farinelli (1705-1782), Giovanni Bathista Velluti (17801861) sau đó chỉ còn là những nhà sư phạm TN.
Trong thời kỳ opera seria đã xuất hiện một số giọng ca nữ, họ đều là
học trò của các nhà sư phạm castrato và cũng giành được sự mến mộ lớn của
khán thính giả. Một số nữ ca sĩ kiệt xuất trong thời kỳ opera seria gồm có:
23
Faustina Bordoni (1697-1781), Francesca Cuzzoni (1696 -1778), Gertrude
Elisabeth Mara (1710-1733), Anbelica Catalani (1780-1849).
Từ đầu thế kỷ XIX giọng hát castrato đã đi vào giai đoạn thoái trào, do
đó việc đào tạo nữ ca sĩ đã trở nên bình thường, đã xuất hiện nhiều ca sĩ nữ lỗi
lạc như: Giuditta Pasta (1797-1865) là ca sĩ giọng Soprano Ý, Nữ ca sĩ giọng
Soprano Pháp gốc Tây Ban Nha Maria Felicia Malibran... Xu hướng đó phát
triển mạnh mẽ hơn vào thế kỷ XIX, đã có những khác biệt lớn về vai trò ở
giọng nữ, trong đó có giọng Soprano trong các tác phẩm của những nhà soạn
nhạc như Rossini, Bellini, Weber… Nhạc sĩ Bellini và Donizetti đã viết những
bè nữ cao tạo cơ sở cho các giọng Soprano nổi tiếng, chẳng hạn như Pasta và
Gris - Ý, Schroder Devrient - Đức… Trước những yêu cầu ở thời kỳ này,
giọng hát phải mạnh mẽ hơn bởi các nhà hát và phòng nghe được mở rộng
hơn trước, dàn nhạc lớn hơn trước, các giọng hát trong đó có giọng nữ cần
phải hát với âm lượng lớn hơn, giọng hát nữ hoàn tồn có lợi thế trong việc
đáp ứng u cầu đó. Bellini, Donizetti,Wagner, Verdi đã ngày càng mở rộng
tầm cỡ, tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ của giọng nữ trong các tác phẩm
“Aida” “Otello”, với giai điệu cao, nhẹ, trữ tình hơn và có khả năng hát các
kỹ thuật passage (nhiều nốt hát nhanh), staccato (âm nẩy) kỹ thuật hoa mỹ
điển hình trong các tác phẩm “La traviata”, “Rigoletto”.
Trong lịch sử âm nhạc thế giới đã cho thấy, thế kỷ XIX là thời kỳ nở rộ
và phát triển về phân loại giọng hát do nhu cầu đa dạng hóa các nhân vật
trong opera, với nhiều tính cách khác nhau nên giọng hát được phân chia một
cách cụ thể, chi tiết hơn tùy vào âm sắc, âm vực và khả năng biểu cảm của
mỗi loại giọng, chẳng hạn: Trữ tình, kịch tính, màu sắc...
Thế kỷ XX với những biến đổi nhiều mặt của xã hội, những phát minh
khoa học, trong lĩnh vực nghệ thuật một số nhà hát opera lớn được xây dựng
như: La Scala (1778) ở MiLan, Grand Opera (1856) ở Paris, Royal opera
house (1885 - 1980) ở LonDon, Metropoliten (1996 - 1883) ở New York,
Nhà hát lớn ở Matxcơva.v.v. đã đóng vai trò quan trọng cổ vũ, tạo điều kiện
24
cho các nghệ sĩ opera có những bước phát triển mới. Thời kỳ này, nhiều ca sĩ
giọng nữ ghi những dấu ấn nghệ thuật đặc sắc. Điển hình cho giọng Soprano
thời đó phải kể tới hai giọng ca: Maria Callas - là giọng Soprano người Mỹ
gốc Hy Lạp - là một trong những nữ ca sĩ opera danh tiếng nhất. Bà sở hữu kĩ
thuật hát giọng đẹp, ấn tượng và khả năng diễn xuất tuyệt vời. Là một giọng
ca đa dạng, bà không chỉ thành công ở những opera seria cổ điển mà còn ở
những vở nhạc kịch sử dụng giọng đẹp của Donizetti, Bellini, Rossini và cả
những tác phẩm của Verdi, Puccini, và một số vở nhạc kịch của Wagner; Ca sĩ
Nezhdanova - Bà được coi là một trong những ca sĩ vĩ đại nhất của nền âm
nhạc hàn lâm Nga cũng như Liên Xô sau này; Ca sĩ Nilsson Birgit (1918 2005), là giọng nữ cao người Thụy Điển, rất nổi tiếng ở thời kỳ này, tham gia
một số vở nhạc kịch Verdi, Puccini và Strauss; Ca sĩ Sutherland Joan 19262010 là một ca sĩ opera vĩ đại người Australia. Bà được xưng tụng là giọng nữ
cao màu sắc vĩ đại nhất thế kỷ XX bởi âm thanh giọng hát vô cùng đẹp. Bà đã
xây dựng tượng đài to lớn qua vở Lucia di Lammemoor (Donzetti)...;
Schwarzkopf Elisabeth (1915 - 2006) là một giọng nữ cao người Đức, nổi
tiếng với những màn trình diễn của vở opera Vienna, cũng như các vở opera
của Mozart, Wagner và Richard Strauss. Bà được coi là một trong những
sopranos vĩ đại nhất của thế kỷ XX...
Tại Việt Nam, chỉ tính từ năm 1956 cho đến nay đã có rất nhiều tác
phẩm TN được sáng tác dành cho giọng Soprano. Từ Aria, Romance đến các
ca khúc nghệ thuật... Ví dụ: Aria Cơ Sao Trích opera “Cô Sao” của tác giả Đỗ
Nhuận; Opera “Lá Đỏ” của tác giả Đỗ Hồng Quân; Bài Ca Hy vọng của Văn
Ký, Người Hà Nội của Nguyễn Đình Thi, Xa khơi của Nguyễn Tài Tuệ; Cánh
chim báo tin vui của Đàm Thanh, Tiếng đàn Ta - Lư của Huy Thục... Những
tác phẩm này đã được các nghệ sĩ giọng Soprano thể hiện rất thành cơng,
chẳng hạn: NSND Lê Dung; Bích Việt; Thanh Huyền; Minh Đỗ, Tường Vy,
Thúy Hà... Có thể thấy, giai điệu trong những tác phẩm kể trên chỉ loại giọng
Soprano mới có thể thực hiện được nhiều nhất yêu cầu về kỹ thuật TN cho tới
25
tinh thần, lý tưởng của các nhạc sĩ sáng tác muốn truyền tải tới công chúng.
Trải qua thời gian, giọng Soprano ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò
trong sự phát triển chung của TN thế giới bởi đây là loại giọng có sức lơi cuốn
mãnh liệt, hát ở âm vực rộng, lên rất cao, thuận lợi để miêu tả, mô phỏng một
cách sinh động tính chất âm nhạc, tâm tư tình cảm và nghệ thuật mà tác phẩm
hướng tới. Số lượng tác phẩm nhạc kịch, thính phòng cho tới ca khúc nói
chung đều dành một khối lượng lớn viết cho giọng Soprano cũng bởi lẽ đó.
Trong các cuộc thi TN chuyên nghiệp ở trong và ngoài nước, các giải thưởng
cao nhất thường thuộc về giọng Soprano bởi các tác phẩm TN mà giọng hát
này thể hiện thường đạt độ tinh xảo về kỹ thuật hát và biểu diễn.
1.3. Đôi nét về đào tạo thanh nhạc trên thế giới và Việt Nam
1.3.1. Về đào tạo thanh nhạc trên thế giới
Như chúng ta đã biết, sư phạm âm nhạc nói chung và TN nói riêng ln
gắn liền với các giai đoạn lịch sử, nó phản ánh sự tiến bộ và phát triển của xã
hội theo từng giai đoạn. Chẳng hạn: Thế kỷ XIX - thế kỷ của các thành tựu
khoa học cơ bản phát triển mạnh, nền sư phạm TN đã kế thừa lý thuyết về hơi
thở, có thêm lý thuyết về cộng minh. Thời kỳ này vấn đề giải phẫu cơ thể
trong y học đã giúp cho nghệ thuật ca hát có bước tiến mới đó là việc các nhà
sư phạm cũng như các ca sĩ hiểu được âm thanh của giọng hát muốn bay xa
và vang lên trong không gian biểu diễn lớn thì khơng chỉ có hơi thở (khơng
làm tắt ngọn nến) mà còn cần đến sự hỗ trợ của các khoang cộng minh. Sang
thế kỷ XX - thời kỳ của khoa học hiện đại các nhà sư phạm TN lại đưa ra
thuyết cơ chế, thuật ngữ này nhằm chỉ sự hoạt động của các bộ phận trong hệ
thống tạo nên âm thanh. Dựa trên các kết quả nghiên cứu khoa học và kinh
nghiệm giảng dạy, các nhà sư phạm đã vận dụng kết hợp cả ba yếu tố hơi thở,
cộng minh và cơ chế vào giảng dạy... có nghĩa là mỗi thời kỳ phương pháp sư
phạm TN đã có sự biến chuyển mạnh mẽ để phù hợp với xu thế.
Trong dòng chảy của lịch sử đào tạo TN trên thế giới có nhiều trường
phái, nhiều nhà sư phạm TN lỗi lạc, có tầm ảnh hưởng sâu sắc, mạnh mẽ
mang tính lịch sử trong sự nghiệp phát triển TN nói chung. Tuy nhiên, trong
phạm vi luận án chúng tôi xin điểm qua một số nhà sư phạm TN có tầm ảnh
26
hưởng lớn tới đào tạo giọng Soprano cũng như giới thiệu một số giọng
soprano có tầm ảnh hưởng lớn tới sự phát triển TN trên thế giới và tại Việt
Nam, từ đây làm cơ cở vận dụng triển khai đối tượng nghiên cứu của luận án
là đào tạo giọng Colorature Soprano CLC.
1.3.1.1. Một số nhà sư phạm thanh nhạc tiêu biểu thế giới có liên quan
tới đào tạo giọng Soprano
Những nhà sư phạm chúng tôi giới thiệu tại phần này gồm những người
có kinh nghiệm đúc kết từ nghiên cứu, giảng dạy và một số nhà sư phạm
thanh nhạc có xuất phát là những nghệ sĩ giọng Castrato, giọng Soprano, đã
từng thể hiện thành công những vở diễn, vai diễn dành cho loại giọng này.
Một số nhà sư phạm đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển của nghệ
thuật TN Bel canto. Những phương pháp giảng dạy cũng như kỹ thuật thanh
nhạc trong các cơng trình nghiên cứu của họ đối với giọng Soprano đã mang
lại thành quả đào tạo cao trên thế giới.
A.E. Varlamov (1801 -1848)
Là nhạc sĩ tên tuổi, nổi tiếng, giữ vai trò lớn cho nền âm nhạc Nga. Là
giọng nam cao nhẹ với phương pháp tốt. Năm 1840 xuất bản cuốn sách
Trường phái hát, là đóng góp khơng nhỏ trong lịch sử nghệ thuật hát của nước
Nga nói riêng và “được các nhà sư phạm TN trên thế giới và những người
học thanh nhạc quan tâm cho tới tận bây giờ” [35, tr. 162].
Francesco Lamperti (1813- 1892)
Là nhà sư phạm nổi tiếng thuộc trường phái Ý thế kỷ XIX. Ông nổi
tiếng là một nhà sư phạm thực hành. Ông viết các cuốn sách về TN như:
Những bài tập phát triển rung láy; Những bài tập tinh xảo cho giọng nữ cao;
Lý luận, thực hành định hướng ban đầu để học hát và Nghệ thuật hát. Tên
tuổi của ông được gắn với Nhạc viện Milan “ông được coi trọng như một nhà
sư phạm thượng đẳng” [35, tr.148].
Lilli Lehmann (1848-1929)
Là ca sĩ trẻ giọng Colorature Soprano (nữ cao màu sắc), kết quả hoạt
động nghệ thuật và sư phạm được đúc kết trong cuốn Nghệ thuật hát của tôi.
Nội dung cuốn sách mang nhiều yếu tố chủ quan xong những lời khuyên của
tác giả cũng rất được chú ý. “Là ca sĩ có thể giữ được giọng trẻ mãi không
27
già bằng cách dần dần liên kết cộng minh đầu với tất cả vị trí âm thanh
khác...sử dụng giọng hát một cách cẩn thận” [35, tr.150].
Enrico Caruso (1873 - 1921)
Ông là ca sĩ tiêu biểu cho trường phái mới nghệ thuật ca hát Ý. Được
nhắc tới là ca sĩ nhạy cảm, nồng nhiệt, thuộc trường phái “độc nhất vô nhị.
Hát rất thoải mái và không bao giờ hát phơ” [35, tr.151] Ơng viết cuốn sách
Phải hát như thế nào...
Điểm qua đại diện một số nhà sư phạm trên thế giới đã cho thấy sự đa
dạng về phương pháp sư phạm TN. Mỗi người có con đường và định hướng
riêng để phát triển giọng hát. Tuy nhiên, tựu chung lại phương pháp đào tạo
TN bao gồm: Dạy theo sự tích lũy kinh nghiệm của những người đi trước và
của bản thân; dạy bằng sự nghiên cứu tìm tòi và xử lý ngôn ngữ, ca từ; dạy
học theo cơ chế, dạy bằng sự phát triển theo tính cá thể của người học... Có
thể thấy, con đường đào tạo một giọng ca có khá nhiều cách khác nhau xong
người thầy dạy TN có kinh nghiệm thường biết cách kết hợp linh hoạt các
phương pháp để giọng hát của mỗi người phát triển thuận lợi nhất và đạt hiệu
quả cao.
1.3.1.2. Một số mơ hình đào tạo âm nhạc trên thế giới
Trên thế giới, rất nhiều Học viện Âm nhạc nổi tiếng đã và đang hiện
hữu những mơ hình đào tạo mang tầm ảnh hưởng lớn tới sự phát triển âm
nhạc chung như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga, Italia, Đức, Mỹ ... Để hiểu rõ
những mặt tích cực và hạn chế trong mơ hình đào tạo TN tại Việt Nam, chúng
tơi tìm hiểu một số mơ hình đào tạo tiên tiến ở một số nước trong khu vực và
quốc gia sau.
Singapore
Là quốc gia có truyền thống hàng đầu ở khu vực Đơng Nam Á về đào
tạo âm nhạc. Nhạc viện Yong Siew Ton là nơi đào tạo kiến thức âm nhạc ở
trình độ quốc tế cho các nghệ sĩ biểu diễn. Chương trình đào tạo tập trung
trong 4 năm và là một trung tâm rất mạnh về chương trình đào tạo biểu diễn
âm nhạc. “Chương trình đào tạo của nhạc viện sẽ giúp cho người học có
được một nền tảng vững chắc để tiếp tục học tập và có thể trở thành nghệ sĩ
chun nghiệp có trình độ quốc tế” [24, tr. 71]. Để có bằng cử nhân, người
28
học phải đảm nhiệm hai phần: Kiến thức những môn bắt buộc và những kỹ
năng của người biểu diễn. Không bắt học quá nhiều các môn đại cương.
Singapore không những mở cửa tiếp cận với các trường đại học nước ngồi
mà còn biến mình thành trung tâm của dịch vụ giáo dục. Trường đại học
Singapore đã Quốc tế hóa một cách đáng kể, đặc biệt trong chọn giảng viên.
Trong lĩnh vực đào tạo đỉnh cao, Singapore chú trọng cử những SV xuất sắc
đi học tập ở nước ngồi.
Hàn Quốc
Giáo dục âm nhạc nói riêng tại Hàn Quốc rất chú trọng tạo dựng cho
thế hệ người học sự tự tin vào bản thân. Chương trình đào tạo TN ở một số
trường đào tạo âm nhạc lớn, chẳng hạn: Đại học Âm nhạc Quốc gia Seoul,
ngoài học các môn kiến thức âm nhạc đại cương, đào tạo ca sĩ nơi đây còn
trang bị một số mơn học bổ trợ chuyên ngành như: “Ngoại ngữ chuyên ngành
(Tiếng Ý, Đức, Pháp), lịch sử của opera, huấn luyện opera... Nhiều giảng
viên đầu ngành đã tu nghiệp tại Mỹ, Canada, Đức... đạt trình độ cao, nhiều
SV nơi đây đạt nhiều giải Quốc tế” [24, tr. 87].
Liên Bang Nga
Trường phái đào tạo âm nhạc Nga là một trong những trường phái
mạnh nhất trên thế giới. “Cơ cấu của hệ thống âm nhạc tại Nga hầu như giữ
ngun, khơng có thay đổi lớn bởi hệ thống đào tạo của Nga rất ưu việt. Học
sinh được theo học theo một hệ thống cơ bản xun suốt từ thấp đến cao và
ln có sự bảo trợ của nhà nước” [24, tr. 87]. Tìm hiểu chương trình đào tạo
tại Nga, chúng tơi đã phỏng vấn ca sĩ Nguyễn Bảo Yến - SV theo học tại Nhạc
viện Quốc gia Urai-Ekateinburg thuộc Liên Bang Nga chuyên ngành TN hệ
chuyên gia về chương trình đào tạo thanh nhạc. Theo Bảo Yến, chương trình
đào tạo được chia theo bậc học 4 năm với bậc cử nhân và bậc chuyên gia 6
năm (tương đương hệ đại học đến hết thạc sỹ so với đào tạo TN tại
HVANQGVN).
“Ngồi học những mơn kiến thức âm nhạc cơ bản SV được học
rất nhiều môn bổ trợ cho hát nhạc kịch. Năm thứ nhất, học mơn
múa Ba Lê, tiếng Ý, nói sân khấu, hành động sân khấu... Từ năm
29
thứ 2 SV được học môn nhạc kịch, được diễn và đóng các vai
trong vở nhạc kịch, đây là môn SV được học xuyên suốt tới hết
chương trình học đồng thời là một trong những mơn bảo vệ tốt
nghiệp. [Phỏng vấn ca sĩ Nguyễn Bảo Yến qua ghi âm, CD 1,
check 3].
Như vậy, SV học thanh nhạc tại Nga ngồi học chun mơn còn được
đặc biệt quan tâm tới các môn bổ trợ chuyên ngành.
Italia
Italia luôn xác định đào tạo TN để trở thành ca sĩ hát opera. Chương
trình đào tạo đại học TN, SV ngồi học kiến thức âm nhạc đại cương còn
được học nhiều mơn bổ trợ chuyên ngành chính như: Đọc thơ kết hợp với
kịch, phương pháp kỹ thuật thanh nhạc, phương pháp giảng dạy thanh nhạc,
ngẫu hứng sân khấu, hát thoại với các tác phẩm thanh nhạc, phát âm tiếng
Anh, Italia, Pháp... Trước đây, thời gian đào tạo được kéo dài từ 5 đến 7 năm.
Tuy nhiên, những năm gần đây quy trình đào tạo đã có sự thay đổi sau khi áp
dụng học chế tín chỉ: “Đào tạo trình độ đại học thanh nhạc là 3 năm và sau
đó là hai năm trình độ thạc sĩ” [88, tr. 66]. Học phần bắt buộc gồm: Thực
hành biểu diễn thanh nhạc, nghệ thuật biểu diễn sân khấu, lịch sử âm nhạc
nhà hát, lịch sử và phân tích tác phẩm, ngữ âm và phát âm cùng rất nhiều học
phần ở phần kiến thức tự chọn.
Mỹ
Chương trình đào tạo TN gồm 4 năm, bên cạnh mơn chính về lý thuyết
âm nhạc và nghệ thuật biểu diễn opera các SV còn được học: Hát hợp xướng,
diễn xuất opera, kỹ năng chơi đàn piano, học ngoại ngữ tiếng Anh, Italia,
Pháp, Đức, Nga... Đào tạo Thạc sỹ, ngoài phát triển kỹ thuật thanh nhạc thì
chú trọng về đơn ca các bản aria, chuẩn bị tập luyện vai diễn trong các nhà
hát. Khóa học còn bao gồm các mơn học: Dàn dựng opera, diễn xuất opera,
lịch sử opera...
“Nhìn chung, chương trình tạo điều kiện để người học được thực
hành biểu diễn trong các vở opera được dàn dựng trong các
trường hoặc ở các nhà hát Opera. SV thường được thực tập tại
30
các nhà hát, khóa thực tập được kéo dài theo mùa biểu diễn của
nhà hát. Với những SV xuất sắc có thể có cơ hội trở thanh diễn
viên của nhà hát. [88, tr. 79]
Tựu chung lại, mơ hình đạo tạo TN tại một số nước trên thế giới chúng
tôi nêu trên có những điểm chung sau. Đa số các nước có hệ đào tạo cử nhân
(4 năm) và hệ đào tạo thạc sỹ (hai năm). Chương trình được xây dựng dựa
trên nền tảng âm nhạc phương Tây, thể hiện tính ưu việt rất cao tạo điều kiện
và cơ hội cho tất cả SV có thể học và phát triển giống nhau. Nhiều môn học
bổ trợ môn như: Thực hành tác phẩm thính phòng, đọc thơ kết hợp với kịch,
ngẫu hứng sân khấu, nhảy múa cổ điển, hát thoại với các tác phẩm thanh
nhạc, phát âm ngoại ngữ chuyên ngành... nhằm phát triển ca sĩ một cách toàn
diện, rất chú trọng sự phát triển ca sĩ hát opera. Các nước đề cao hội nhập
quốc tế, coi việc cử người đi học nước ngoài cũng như mở cửa cho SV nước
ngoài theo học là việc làm quan trọng đối với sự phát triển chung của nền TN
thế giới, hầu hết các nước đều rất chú trọng phát triển tài năng chất lượng cao,
có thể nhận thấy rõ điều này thơng qua những mơ hình đào tạo mang tính ưu
việt nhằm phát triển ca sĩ một cách toàn diện nhất. So sánh với chương trình
đào tạo hiện hành ở Việt Nam. Về thời gian đào tạo giống như các nước kể
trên với 4 năm hệ đại học và 2 năm hệ thạc sỹ. Ngồi chun ngành chính,
các mơn kiến thức âm nhạc đại cương SV được trang bị khá đầy đủ, tuy
nhiên, những môn học bổ trợ cần thiết cho chuyên ngành như phát âm tiếng
Đức, Nga, Ý; nhảy múa cổ điển... chưa được chú trọng để triển khai...
1.3.1.3. Một số giọng Soprano tiêu biểu thế giới
Có rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng trên thế giới là giọng Soprano, dưới đây
chúng tôi giới thiệu một số gương mặt tiêu biểu sau.
Nezhdanova (1873-1950)
Antonina Vasilevna Nezhdanova (1873 - 1950). Bà được coi là một
trong những ca sĩ vĩ đại nhất của nền âm nhạc hàn lâm Nga cũng như Liên Xô
sau này. Nezhdanova đạt được những kết quả đáng kinh ngạc trong khoảng
thời gian ngắn tới mức mà những người khác coi đó như một sự thần kỳ. Năm
1919, bà là một trong những nữ ca sĩ Xô Viết đầu tiên được nhận danh hiệu
31
nghệ sĩ công huân của nước Nga Xô Viết. Năm 1925 bà được trao các danh
hiệu nghệ sĩ nhân dân và anh hùng lao động của nước Nga Xô Viết. Năm
1936, bà bắt đầu giảng dạy ca hát ở Matxcơva và được bổ nhiệm làm giáo sư
năm 1943. Không chỉ cá nhân bà mà nhiều học sinh của Nezhdanova đã trở
thành những ca sĩ tên tuổi góp phần tạo nên bộ mặt mới, đầy sức sống của nền
TN Liên Xô.
Maria Callas (1923 –1977)
Bộc lộ tài năng từ khi còn nhỏ và “nhiều lần đạt giải trong các cuộc thi
nhạc ở trường và thi hát nghiệp dư toàn quốc, trở thành ngôi sao nhỏ trên đài
phát thanh” [44, tr. 442], là một trong những nữ ca sĩ opera danh tiếng nhất.
Bà sở hữu kĩ thuật hát giọng đẹp, ấn tượng và khả năng diễn xuất tuyệt vời.
Là giọng ca đa dạng, bà không chỉ thành công ở những opera seria cổ điển mà
còn ở những vở nhạc kịch sử dụng giọng đẹp của Donizetti, Bellini, Rossini
và cả những tác phẩm của Verdi, Puccini, một số vở nhạc kịch của
Wagner (trong những năm đầu sự nghiệp). Những vai diễn thành công nhất
của bà là Lucia (Lucia di Lammermoor), Floria Tosca (Tosca), Violetta (La
Traviata), Norma (Norma), Medea (Médée). Bà được gọi với danh hiệu La
Divina (Nữ thần). Thành tựu lớn nhất của Callas là làm sống lại lối hát bel
canto của Ý. Soprano danh tiếng Montserrat Caballé nói: “Cơ ấy đã mở ra
cánh cửa mới cho chúng tôi, cho tất cả ca sĩ trên thế giới, một cánh cửa mà
đã bị đóng lại. Đằng sau sự ngủ qn của nó khơng chỉ là âm nhạc mà là sự
sáng tạo lớn. Được so sánh với Callas là điều tôi không bao giờ dám mơ. Tôi
thật quá nhỏ bé so với Callas” [72, tr 42].
Với những thành quả đạt được, năm 2007, Callas được truy tặng Giải
Grammy thành tựu trọn đời. Tên bà cũng được khắc trên đại lộ Danh Vọng ở
Hollywood. Cũng trong năm đó, bà được Tạp chí âm nhạc của BBC bầu chọn
là giọng Soprano vĩ đại nhất mọi thời đại. Bà cũng được nhiều nghệ sĩ tưởng
nhớ đến trong các tác phẩm của họ.
Jo Sumi ( 1962)
Là một trong số ít ca sĩ giọng Colorature Soprano tại thủ đô Seoul, Hàn
Quốc. Cơ có vai diễn đầu tiên Susanna trong vở Đám cưới Figaro của Mozart.
Cô được giọng nữ cao kỳ cựu Elisabeth Schwarzkopf dẫn dắt tham gia nhiều
32
cuộc thi. Là người có thể biểu diễn aria “Queen of the Night” (Nữ hoàng
đêm tối) của Mozart đạt mức cao hoàn hảo trong vòng 10 năm...
Anna Netrebko (1971)
Nữ ca sĩ opera người Nga là diva nổi tiếng và được tất cả các sân khấu
opera trên thế giới kiếm tìm. Sự nghiệp của cơ bắt đầu từ nhà hát Mariinsky ở
Saint Petersburg dưới sự hướng dẫn của nhạc trưởng lừng danh
Valery Gergiev. Ngoại hình vơ cùng quyến rũ đã giúp cơ hóa thân trong vở
kịch Manon Lescaut hay nhập vai Adina trong Elisir d’Amore 1 cách đặc biệt.
Netrebko hiện đang đứng dẫn đầu trong danh sách những giọng soprano hay
nhất thế giới.
Diana Damrau (1971)
Là giọng Colorature Soprano của Đức nằm trong những hiện tượng
opera cực kì hiếm. Damrau sở hữu một kỹ thuật thanh nhạc tuyệt vời cho
phép cô xử lý các đoạn opera phức tạp nhất với sự khéo léo và an toàn. Bản
Aria Nữ hồng bóng đêm của Mozart do cơ trình bày được cho là hay nhất thế
kỷ tính đến hiện tại. Khả năng đạt được những nốt cao nhất trong khi vẫn giữ
được cả giọng hát và âm sắc đồng nhất không bị thay đổi đã khiến cô thành
người giỏi nhất trong lĩnh vực của mình.
Trên đây chúng tơi điểm qua một số ca sĩ điển hình giọng Soprano nổi
tiếng. Còn rất nhiều ca sĩ khác có thể kể tới như: Alexander Roberta (1949)
người Mỹ, Amara Lusin (1927) người Mỹ; Ameling Elly (1934) người Ba
Lan; Armstrong Sheila (1942) người Anh; Mirella Freni (1935) người Ý;
Katia Ricciarelli (1946) người Ý... Có thể thấy, những giọng Soprano đã có
nhiều đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền TN nói chung trên thế giới.
Chỉ tính những những bản thu âm của các nghệ sĩ, ca sĩ để lại đã là tài sản vô
giá cho bao thế hệ ca sĩ khắp mọi nơi trên thế giới học hỏi và nối tiếp. Giọng
hát của họ làm nguồn cảm hứng cho những sáng tác thanh nhạc để đời. Đặc
biệt hơn, nhiều người đã tham gia đào tạo nhiều thế hệ ca sĩ tiếp nối thành
cơng, góp cơng sức lớn lao cho nền TN thế giới phát triển.