Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.34 KB, 114 trang )
8
Đây là dấu hiệu cơ bản để nhận biết quan hệ tín dụng.
- Quan hệ tín dụng được xây dựng trên cơ sở “sự tin tưởng giữa người cho
vay và người đi vay”[2, trang 18]. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập
quan hệ tín dụng, bởi vì có tin tưởng thì họ mới cho vay, ở đây tin có nghĩa là họ sẽ
thu hồi nợ là một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Tín dụng theo nghĩa rộng “bao gồm hai mặt là huy động vốn và tiến hành
cho vay. Trong hoạt động thực tiễn, quan hệ tín dụng được hình thành hết sức đa
dạng nhưng ở bất cứ dạng nào tín dụng cũng luôn là một quan hệ kinh tế của nền
sản xuất hàng hố, nó tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của
những quan hệ hàng hố – tiền tệ. Mục đích và tính chất của tín dụng do mục đích
và tính chất của nền sản xuất hàng hoá quyết định. Sự vận động của tín dụng ln
ln chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế của phương thức sản xuất trong xã hội
đó” [2, tr.14-16]
1.1.2. Phân loại tín dụng
Trong nềnkinh tế thị trường, hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong phú
với nhiều hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả thì phải
tiến hành phân loại tín dụng. Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản cho vay
theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định.
- Theo thời hạn tín dụng: chia tín dụng thành 3 loại.
+ Tín dụng ngắn hạn: “Là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng và được sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và các
nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đây là loại hình tín dụng ít rủi ro cho ngân
hàng vì trong một thời gian ngắn ít có những biến động xảy ra và ngân hàng thường
ln dự tính được những biến động đó. Nó bao gồm tín dụng chiết khấu, tín dụng
thấu chi, tín dụng ứng trước và tín dụng bổ sung vốn lưu động”[ 9, tr. 26]
+ Tín dụng trung hạn: “Là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín
dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi
mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có
qui mơ nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Ngồi ra, tín dụng trung hạn còn là
nguồn hình thành vốn lưu động thường xun của các doanh nghiệp đặc biệt là
9
những doanh nghiệp mới thành lập. Nó bao gồm các hình thức chủ yếu sau: tín
dụng thực hiện theo dự án, tín dụng hợp vốn, tín dụng cho thuê tài chính” [9, tr 26]
+Tín dụng dài hạn: “là loại tín dụng có thời hạn >5 năm được sử dụng để cấp
vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các cơng trình thuộc cơ
sở hạ tầng (đường xá, bến cảng, sân bay...), cải tiếnvà mở rộng sản xuất với qui mơ lớn.
Loại tín dụng này thường có mức độ rủi ro lớn do khó lường trước những biến động có
thể xảy ra. Nó bao gồm đầy đủ các loại hình trên” [9, tr. 33- 34].
- Theo đối tượng tín dụng: chia tín dụng thành 2 loại đó là:
+ Tín dụng vốn lưu động: “là hình thức cấp tín dụng có thời hạn ngắn thường
<1 năm. Được sử dụng để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế, có
nghĩa là cho vay bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Đây là loại tín dụng có
mức độ rủi ro thấp do nó phục vụ cho chu kì sản xuất kinh doanh nên Ngân hàng có
thể theo dõi thường xuyên và dự báo biến động xảy ra. Nó bao gồm: cho vay dự trữ
hàng hố, cho vay chi phí sản xuất, cho vay để thanh tốn các khoản nợ dưới hình
thức chiết khấu kì phiếu”[ 5, tr. 27- 28].
+ Tín dụng vốn cố định: “là hình thức đầu tư vốn của ngân hàng mà chi phí
đầu tư gắn liền với TSCĐ, có nghĩa là đầu tư để mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kĩ
thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và các cơng trình mới. [5, tr. 27- 28].
- Theo mục đích sử dụng vốn: chia tín dụng thành 2 loại.
+ Tín dụng sản xuất và lưu thơng hàng hố: là hình thức cấp tín dụng lấy đối
tượng thực hiện trong quá trình sản xuất kinh doanh của ngân hàng để làm cơ sở
cấp tín dụng như các nhà doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và
lưu thông hàng hố. Nó được áp dụng khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh của
các NHTM.
+ Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm nhà cửa, các vật dụng đắt tiền và các khoản tín dụng để trang trải các chi
phí thơng thường của đời sống thơng qua việc phát hành thẻ tín dụng. Với hình thức
cấp tín dụng này ngân hàng chỉ quan tâm đến nguồn trả và thu nhập của khách hàng
mà ít quan tâm tới việc sử dụng khoản tín dụng có hiệu quả hay khơng do đó loại tín
10
dụng này có mức độ rủi ro cao hơn.”.
- Theo mức độ tín nhiệm với khách hàng,“tín dụng được chia làm hai loại.”
+ Tín dụng có bảo đảm: Là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người bảo
lãnh đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay. Hình thức này áp dụng đối với các
khách hàng khơng có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo
đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lí để ngân hàng có thêm một nguồn thu thứ hai
bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
+ Tín dụng khơng có tài sản đảm bảo đảm: Là khoản tín dụng mà Ngân hàng
không nắm giữ tài sản của người đi vay để xử lý nhằm thu hồi nợ mà thay vào đó là
điều kiện ràng buộc khác khi ký hợp đồng tín dụng. Những điều kiện này có thể là:
người đi vay không được giao dịch với ngân hàng nào khác, hoạt động kinh doanh
của người đi vay phải được ngân hàng quản lý. Có như vậy ngân hàng mới quản lý
được tình hình tài chính của người đi vay. Thơng thường chỉ có những khách hàng
có quan hệ lâu năm với ngân hàng hoặc những khách hàng có uy tín, hay những
khách hàng mà ngân hàng có tham gia góp vốn vào thì mới được cho vay khơng có
đảm bảo.
- Theo phương pháp hồn trả: tín dụng được chia 2 loại.
+ Tín dụng có thời hạn: Là loại tín dụng có thoả thuận thời hạn trả nợ cụ thể
theo hợp đồng. Đối với loại tín dụng này khách hàng có thể trả nợ trước hạn nhưng
ngân hàng được quyền thu lãi tồn bộ kì hạn trả nợ theo hợp đồng trừ trường hợp có
những thoả thuận khác. Nó bao gồm: tín dụng chỉ có một kì hạn trả nợ, tín dụng có
nhiều kì hạn trả nợ cụ thể (tín dụng trả góp), tín dụng hồn trả nợ nhiều lần nhưng
khơng có kì hạn nợ cụ thể, mà việc trả nợ phụ thuộc váo khả năng tài chính của
người đi vay.
+ Tín dụng khơng có thời hạn cụ thể: là loại tín dụng mà ngân hàng có thể
u cầu người đi vay tự nguyện trả nợ bất kì lúc nào nhưng phải báo trước một thời
gian hợp lý, thời gian này có thể được thoả thuận trong hợp đồng.
11
1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng
- Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh
tế.Trong nền kinh tế thường xuyên có một số các doanh nghiệp trong q trình sản
xuất kinh doanh có một bộ phận vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi được tách ra khỏi
quá trình tái sản xuất của các doanh nghiệp như: tiền khấu hao tài sản cố định để
tái tạo lại tài sản cố định nhưng chưa mua vì có sự chênh lệch về thời gian giữa
việc bán sản phẩm và việc mua nguyên vật liệu; tiền trả lương cho người lao động
nhưng chưa đến hạn trả; khoản tiền tích luỹ để tái sản xuất mở rộng nhưng chưa
đủ điều kiện để đầu tư.... Các khoản tiền tệ trên đây ln được các doanh nghiệp
tìm cách đầu tư kiếm lời. Ngồi ra còn có các khoản tiền để dành của dân cư, khi
chưa có nhu cầu sử dụng, họ cũng muốn đầu tư để kiếm lời. Tất cả tạo thành
nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế. Trong khi đó có một số doanh nghiệp, cá
nhân thiếu vốn để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh của mình; một số cá nhân
trong xã hội cần vốn để cải thiện sinh hoạt hoặc đối phó với những rủi ro trong
cuộc sống; Ngân sách Nhà nước bị thâm hụt. Nhà nước cần vốn để bù đắp sự thâm
hụt đó đảm bảo cân đối thu chi cho nền kinh tế. Như vậy, ta thấy trong xã hội ln
có một số người thừa vốn cần đầu tư và một số người thiếu vốn muốn đi vay. Song
những người này khó có thể trực tiếp gặp nhau, hoặc có thể gặp nhau thì chi phí
rất cao và khơng kịp thời. Hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại đã
thoả mãn những lo lắng của những người có vốn và đáp ứng nhu cầu của người
cần vốn, có nghĩa là các ngân hàng thương mại đứng ra làm trung gian nhận tiền
gửi từ tất cả các thành phần kinh tế và cho vay lại các đơn vị, cá nhân trong nền
kinh tế. Hay nói cách khác: "tín dụng ngân hàng là chiếc cầu nối để những người
có vốn và những người cần vốn gặp nhau"
- Tín dụng ngân hàng là cơng cụ mạnh mẽ để thúc đẩy q trình tập trung và
điều hồ vốn trong nền kinh tế. Như trên đã trình bày, thơng qua hoạt động "đi vay
để cho vay". Tín dụng ngân hàng đã làm nhiệm vụ đưa vốn từ nơi thừa vốn đến nơi
thiếu. Điều này được thể hiện ở việc tín dụng thu hút các nguồn vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân để cho vay đầu tư phát triển kinh tế. Bằng các
12
hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng và phong phú cúng với việc thoả mãn
thích đáng nhu cầu lợi ích, nhu cầu tiền đột xuất của người gửi tiên mà các Ngân
hàng thương mại đã thu hút được hầu hết các nguồn tiền nhàn rỗi dù là rất nhỏ từ
trong dân chúng tập trung về tay mình và từ đó đáp ứng được nhu cầu về vốn ngày
càng tăng của nền kinh tế, hay nói cách khác hoạt động tín dụng đã làm nhiệm vụ
thơng dòng để vốn chảy từ nơi thừa đến nơi thiếu thông qua việc thực hiện hoạt
động đi vay và cho vay. Nhờ đó đã góp phần cung ứng và điều hồ vốn trong từng
doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế, tạo cho quá trình sản xuất được tiến hành một
cách trơi chảy đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cố định, vốn lưu động, bổ sung tăng
cường củng cố tài sản cố định làm cho q trình sản xuất được tuần hồn, thúc đẩy
sản xuất lưu thông, tăng tốc độ chu chuyển vốn tiền tệ trong xã hội, góp phần thúc
đẩy q trình tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triền
bền vững.Vì vậy có thể nói tín dụng ngân hàng là cơng cụ mạnh mẽ thúc đẩy q
trình tập trung và điều hồ vốn trong nền kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy, củng cố chế độ hạch toán kế
toán.Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở có hồn trả và có lợi
tức (gốc+lãi). Ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mọi thành
phần kinh tế và cho vay khi họ tạm thời thiếu vốn. Các doanh nghiệp vay vốn ngân
hàng ngoài việc được cung ứng vốn một cách kịp thời đầy đủ còn được ngân hàng
hỗ trợ trong q trình sử dụng vốn thông qua những ý kiến tư vấn khi lập phương án
sản xuất kinh doanh hoặc chọn đối tác ký kết hợp đồng... Mặt khác, trong khi sử
dụng vốn vay, khách hàng có quan hệ ràng buộc với ngân hàng bởi trách nhiệm
hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định. Vì vậy đòi hỏi các
doanh nghiệp phải cân nhắc làm thế nào để sử dụng vốn có hiệu quả nhất, giảm
thiểu chi phí, tăng vòng quay của vốn đảm bảo kinh doanh có hiệu quả cho doanh
nghiệp, đồng thời tăng hiệu quả của hoạt động tín dụng ngân hàng. Muốn vậy các
doanh nghiệp phải tự vươn lên thông qua các hoạt động của mình mà một trong các
hoạt động khá quan trọng là việc hạch toán kế toán nhằm giám sát mọi hoạt động tài
chính tiền tệ của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Như vậy thơng qua
13
hoạt động tín dụng mà cụ thể là cho vay, ngân hàng có thể kiểm soát hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp làm cho người vay càng có ý thức hơn trong cơ chế
quản lý tài chính, quản lý đồng vốn, qua đó tăng cường củng cố chế độ hạch tốn kế
tốn thêm vững chắc. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy q trình ln chuyển
hàng hố, ln chuyển tiền tệ, điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông và kiểm sốt
lạm phát. Thơng qua hoạt động tín dụng, khối lượng tiền trong lưu thông sẽ tăng lên
khi thực hiện hoạt động cho vay và ngược lại sẽ giảm xuống khi thực hiện hoạt
động thu nợ, do đó sẽ góp phần điều tiết khối lượng tiền trong toàn bộ nền kinh tế.
Ngân hàng sử dụng công cụ lãi suất, hạn mức tín dụng để làm thay đổi khối lượng
tiền vay, từ đó điều tiết được khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiểm sốt được
lạm phát, bởi vì tín dụng ngân hàng khi điều tiết được khối lượng tiền tức là khống
chế được khối lượng tiền cần thiết cho nhu cầu trao đổi và lưu thơng hàng hố, nhờ
kiểm sốt được giá cả. Hay nói cách khác ,việc đưa tiền vào lưu thơng qua tín dụng
ngân hàng là con đường hữu hiệu nhất bởi vì khối lượng tiền này đã được đảm bảo
bằng một lượng giá trị vật tư hàng hoá và tránh được lạm phát tiền tệ. Mặt khác,
chúng ta cũng biết rằng Ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý vĩ mô đối với các
Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, có nhiệm vụ kiểm tra, khảo sát
mọi hoạt động của các tổ chức này nhằm đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động an tồn
và có hiệu quả. Thơng qua hoạt động tín dụng các ngân hàng thương mại, Ngân hàng
trung ương có thể biết được phạm vi, phương hướng đầu tư, hiệu quả đầu tư vào cá
ngành kinh tế từ đó có chính sách tiền tệ thích hợp. Nếu nền kinh tế có dấu hiệu tăng
trưởng, hiệu quả đầu tư vào cá ngành trong nền kinh tế cao thì Ngân hàng trung ương
sẽ thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng tức là bơm thêm tiền vào lưu thông. Ngược
lại, nếu nền kinh tế có dấu hiệu suy thối thì Ngân hàng trung ương sẽ thực hiện
chính sách tiền tệ thắt chặt tức là rút bớt tiền từ lưu thông về. Như vậy bằng các cơng
cụ như hạn mức tín dụng, lãi suất tín dụng Ngân hàng trung ương có thể kiểm sốt,
điều tiết lưu thơng tiền tệ đảm bảo khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông nhằm ổn
định giá trị đồng tiền, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
14
- Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện để phát triển kinh tế với các nước. Mỗi
một quốc gia muốn phát triển nền kinh tế của mình thì khơng thể chỉ dựa vào tiềm
năng của đất nước mà còn phải mở rộng quan hệ kinh tế ra bên ngoài, tham gia vào
nền kinh tế thế giới, bởi lẽ không có một nước nào lại có thể hội tụ đầy đủ các tiềm
năng để phát triển kinh tế mọi mặt, mà các nước đều chỉ có lợi thế so sánh của
mình, do đó nó thường phát sinh quan hệ vay mượn lẫn nhau mà chủ yếu là vốn đầu
tư. Vì vậy, tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền
kinh tế các nước với nhau. Thơng qua các hình thức như nhận uỷ thác đầu tư, mở và
thanh tốn thư tín dụng, bảo lãnh hàng hố xuất nhập khẩu, chuyển tiền nhanh đi
các nơi... tín dụng ngân hàng đã trực tiếp tham gia trong quan hệ thanh toán quốc tế,
các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, tài trợ cho các hoạt động sản xuất, xuất
nhập khẩu, đầu tư chiều sâu, đôi rmới công nghệ và ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất trong nước thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển nhằm phục vụ tốt
cho hoạt động xuất nhập khẩu góp phần tăng trưởng kinh tế và mở ra sự giao lưu
giữa nước ta với các nước khác trên thế giới. Ngoài ra với việc tín dụng ngân hàng
nhận các nguồn tài trợ như ODA, ESAF... từ các nước cấp tín dụng cũng như các tổ
chức tín dụng quốc tế với mục đích tài trợ cho nền kinh tế đã mang lại những kết
quả to lớn về kinh tế xã hội đồng thời tăng cường mối quan hệ tốt đẹp giữa nước ta
với các nước trên thế giới.
Tóm lại, tín dụng ngân hàng có vai trò vơ cùng quan trọng đối với nền kinh tế
đất nước.Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn để giải
quyết nhu cầu này thoả đáng trong mối quan hệ này, từ đó thúc đẩy tái sản xuất mở
rộng tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững, thơng qua tín dụng
ngân hàng có thể kiểm sốt được khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thực
hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ. Mặt khác, tín dụng ngân hàng còn thúc
đẩy các doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh, giúp các doanh
nghiệp khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế trong hoạt động kinh doanh.
15
1.2. Tín dụng trung và dài hạn
1.2.1. Khái niệm tín dụng trung và dài hạn
Tín dụng trung hạn là khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60
tháng [12].
Ngân hàng cung cấp loại hình tín dụng này cho khách hàng là các tổ chức, cá
nhân để tài trợ cho những nhu cầu mua sắm lớn và mở rộng sản xuất. Các tài sản cố
định như phương tiện sản xuất, phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang
thiết bị nhanh hao mòn có nhu cầu nguồn vốn từ 1 năm đến 5 năm.
Tín dụng dài hạn là khoản vay có thời hạn cho vay lớn hơn 60 tháng [12].
Đối tượng tín dụng dài hạn là Nhà nước, các tổ chức và doanh nghiệp:
- Nhà nước sẽ vay vốn ngân hàng thơng qua việc bán các trái phiếu Chính
phủ, trái phiếu cơng trình cơng cộng, các ngành và vùng kinh tế trọng điểm khuyến
khích phát triển.
- Các tổ chức, doanh nghiệp yêu cầu sử dụng tín dụng dài hạn để đầu tư vào
các cơng trình lớn, trang thiết bị, cơng nghệ hiện đại mang tính chiến lược trong kế
hoạch phát triển của mình.
- Người tiêu dùng cũng vay dài hạn Ngân hàng thương mại để mua sắm
những hàng hóa tiêu dùng có tính chất lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận tải.
Như vậy, từ định nghĩa tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn ở trên có thể
định nghĩa tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại như sau: “Tín dụng
trung và dài hạn là các khoản tín dụng của Ngân hàng thương mại mà có thời
hạn cho vay trên 12 tháng”.
Phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với Ngân
hàng thương mại. Nó phản ánh khả năng hồn trả, độ rủi ro cũng như khả năng ảnh
hưởng trực tiếp đến tính an tồn và khả năng sinh lợi của Ngân hàng thương mại.
1.2.2. Đặc điểm tín dụng trung và dài hạn
Vốn đầu tư lớn, thời hạn dài, thu hồi vốn chậm: Đối tượng tài trợ của tín
dụng trung và dài hạn là tài sản cố định và các công trình xây dựng. Đặc điểm của
đối tượng này là có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài. Do đó, khoản tín dụng để
16
tài trợ cho các đối tượng này đòi hỏi một số vốn đầu tư lớn. Mặt khác, nguồn để trả
nợ là các quỹ khấu hao cơ bản và lợi nhuận thu được từ dự án. Vì vậy, thời hạn trả
nợ thường kéo dài đến khi dự án kết thúc.
Rủi ro cao: Do lượng vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm nên độ rủi
ro của các khoản tín dụng trung và dài hạn là cao.
Lãi suất cao: Lãi suất vay, ngoài lãi suất cơ bản còn phụ thuộc vào cấu trúc
rủi ro và cấu trúc kỳ hạn của lãi suất. Mức độ rủi ro càng cao, thời hạn tín dụng
càng dài thì mức bù rủi ro cho Ngân hàng càng lớn, do đó, lãi suất càng cao và
ngược lại. Ngoài ra, Ngân hàng cũng phải tốn nhiều chi phí trong huy động vốn,
thẩm định, thực hiện và giám sát khoản tín dụng… Chính vì vậy, lãi suất trong tín
dụng trung dài hạn thường cao hơn so với tín dụng ngắn hạn
Lợi nhuận từ các khoản tín dụng trung và dài hạn lớn: do lợi nhuận càng
cao thì rủi ro càng lớn, nên các khoản tín dụng trung và dài hạn thường có mức lãi
suất cao. Thêm vào đó, do khoản tín dụng thường có số vốn lớn nên thu nhập mà
khoản tín dụng này đem lại cho Ngân hàng là lớn.
Các đặc điểm của tín dụng trung dài hạn đòi hỏi Ngân hàng phải tăng cường
việc thẩm định, quản lý và giám sát khoản vay. Ngân hàng sẽ tốn khá nhiều công sức
và chi phí nhưng bù lại, lợi ích thu được từ khoản tín dụng trung dài hạn cũng lớn
hơn. Giá trị của một khoản vay trung dài hạn có thể bằng rất nhiều khoản vay nhỏ lẻ
gộp lại trong một thời kỳ. Hơn nữa, những Ngân hàng thành công trong việc đầu tư
theo dự án thường tạo được danh tiếng và ưu thế cạnh tranh. Chính vì vậy, các Ngân
hàng ln coi trọng hoạt động tín dụng trung dài hạn.
1.2.3. Các hình thức tín dụng trung và dài hạn
- Tín dụng theo dự án:
Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phục vụ đời sống. Đây là hình thức cấp tín dụng dựa
trên cơ sở dự án sau khi đã xem xét và khẳng định tính hiệu quả, khả thi của nó.
Như vậy cho vay của ngân hàng khơng chỉ đơn thuần là tín dụng mà còn phải thẩm
định các vấn đề như: phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả khơng, tư cách
17
khách hàng, khả năng tài chính của khách hàng, tài sản đảm bảo .... Việc cấp một
khoản tín dụng sẽ ràng buộc ngân hàng với người vay trong một khoảng thời gian
dài về quyền lợi và trách nhiệm nên cần phải nghiên cứu hết sức kĩ càng, cẩn thận.
- Tín dụng hợp vốn (tín dụng đồng tài trợ):
Việc đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng (TCTD) là q trình cho vay - bảo
lãnh của một nhóm tổ chức tín dụng (từ 2 trở lên) cho một dự án, do một tổ chức tín
dụng làm đầu mối phối hợp các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao năng lực và
hiệu quả trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp và của các tổ chức
tín dụng. Phương thức này được sử dụng cho nhu cầu vay vốn hoặc bảo lãnh để
thực hiện dự án vượt giới hạn tối đa cho phép cho vay hoặc được phép bảo lãnh của
một tổ chức tín dụng; cho nhu cầu phân tán rủi ro của các TCTD hoặc khả năng
nguồn vốn của một tổ chức tín dụng khơng đáp ứng được nhu cầu vốn của dự án.
- Tín dụng tuần hồn (tín dụng theo hạn mức tín dụng):
Hình thức tín dụng này được ngân hàng căn cứ vào phương án, kế hoạch sản
xuất, kinh doanh, nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ vay vốn tối đa so với giá trị
tài sản bảo đảm tiền vay, khả năng nguồn vốn của ngân hàng để thoả thuận với
khách hàng một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời hạn nhất định hoặc theo
chu kỳ sản xuất kinh doanh. Trong thời hạn duy trì hạn mức tín dụng, khách hàng
được rút vốn phù hợp với tiến độ và yêu cầu sử dụng vốn thực tế nhưng phải bảo
đảm không vượt quá hạn mức tín dụng đã ký kết. Trong thời hạn duy trì hạn mức tín
dụng, khách hàng có nhu cầu điều chỉnh tăng hạn mức tín dụng để đáp ứng nhu cầu
sản xuất kinh doanh, nếu thấy hợp lý thì ngân hàng nâng hạn mức tín dụng cho
khách hàng.
- Tín dụng trả góp:
Tín dụng trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho các tài sản
cố định hoặc lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính tốn sao cho phù hợp với khả
năng trả nợ của khách hàng (với dự án thì số tiền trả thường là từ khấu hao và lợi
18
nhuận sau thuế, với cho vay tiêu dùng thì là từ thu nhập hàng tháng của người tiêu
dùng). Hình thức tín dụng này được áp dụng nhiều nhất trong tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng trả góp thường gặp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng
hố mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay.
Nếu người vay mất việc hay ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của
ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất tín dụng trả góp
thường cao nhất trong khung lãi suất tín dụng của ngân hàng.
1.3. Chất lượng dịch vụ tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm về chất lượng dịch vụ và chất lượng dịch
vụ tín dụng trung và dài hạn
Có nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng, tùy thuộc vào nhận thức, nhu
cầu, mong đợi của nhà cung cấp và ngƣời sử dụng sản phẩm dịch vụ:
Gupta, V., K. and Aggarwal, M (2012) giải thích: “Chất lượng dịch vụ là sự
đánh giá của khách hàng về tính siêu việt và sự tuyệt vời nói chung của một thực tế.
Nó là một dạng của thái độ và các hệ quả từ một sự so sánh giữa những gì mong đợi
và nhận thức về những thứ ta nhận được”[21].
Theo Santarelli, F. phát biểu: “Dịch vụ là một sự đo lường mức độ dịch vụ
đưa đến khách hàng tương xứng với mong đợi của khách hàng tốt đến đâu. Việc tạo
ra một dịch vụ chất lượng nghĩa là đáp ứng mong đợi của khách hàng Nhận định
này chứng tỏ rõ rằng chất lượng dịch vụ liên quan đến những mong đợi của khách
hàng và nhận thưc của họ về dịch vụ”[22]. Santarelli, F. giải thích rằng để biết được
sự dự đốn của khách hàng thì điều tốt nhất là nhận dạng và thấu hiểu những mong
đợi của họ.
Edvardsson và cộng sự (1994) cho rằng dịch vụ được đánh giá là chất lượng
khi dịch vụ đó đáp ứng được sự mong đợi của khách hàng và làm thỏa mãn nhu cầu
ngầm định của họ.
Parasuraman và cộng sự (1985, 1988), cho rằng chất lượng dịch vụ là khoảng
cách giữa sự mong đợi của khách hàng với cảm nhận của họ khi đã sử dụng qua
dịch vụ. Định nghĩa này được nhiều nhà khoa học và nhà kinh doanh chấp nhận, sử