Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.11 KB, 113 trang )
tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại, huy động lực lượng toàn xã
hội tham gia vào sự nghiệp xóa đói giảm nghèo và góp phần hạn chế nạn cho
vay nặng lãi ở khu vực nông thôn. Bài viết đi sâu nghiên cứu mơ hình tổ
TK&VV, thành viên tổ TK&VV không phân biệt hội viên của các tổ chức chính
trị xã hội miễn là thuộc đối tượng hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác có
nhu cầu vay vốn NHCSXH. Đến cuối năm 2012 cả nước đã có 200.000 tổ
TK&VV. Tổ TK&VV trong thực tế đang tồn tại nhiều loại hình khác nhau và
được vận dụng một cách linh hoạt. Tuy nhiên việc tồn tại nhiều loại hình tổ
TK&VV khác nhau, nhiều cơ cơ cấu và cấp độ quản lý khác nhau dẫn tới khơng
thể có được một cơ chế hoạt động thống nhất và không thể điều hành hoạt động
theo một quy chuẩn nhất định. Trong thực tiễn đã phát sinh những bất cập trong
việc quản lý cho vay của tổ TK&VV. Xuất phát từ thực tế đó, tác giả đã đưa ra
một số giải pháp nhằm hồn thiện mơ hình tổ TK&VV.
1.1.2. Những nghiên cứu về quản lý tín dụng hộ nghèo tại Ngân hàng
chính sách xã hội ở một số địa phương
- “Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hợ nghèo tại Ngân hàng
Chính sách xã hợi tỉnh Thanh Hóa” (2011), luận văn thạc sỹ kinh tế của Lê Thị
Thúy Nga. Trong cơng trình này, tác giả đã hệ thống hố những vấn đề lý luận
cơ bản về đói nghèo, tín dụng đối với hộ nghèo. Phân tích, đánh giá thực trạng
và hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại NHCSXH tỉnh Thanh Hóa, đồng thời
đề xuất một hệ thống giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng hộ
nghèo tại NHCSXH tỉnh Thanh Hóa. Đó là các giải pháp: Một là phải đặc biệt
coi trọng vai trò của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, tranh thủ tối đa
sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ và chính quyền các cấp; Hai là NHCSXH và
các tổ chức CT-XH cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất, công khai từ
cấp cơ sở, tạo cơ hội cho người nghèo và các đối tượng chính sách được tiếp cận
với dịch vụ tài chính ngân hàng; Ba là thường xuyên làm tốt công tác tuyên
7
truyền, phổ biến chính sách cho vay hộ nghèo; Bốn là thực hiện sơ kết, tổng kết
các phong trào thi đua khen thưởng, động viên kịp thời; Năm là thường xuyên
nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ NHCSXH, cán bộ quản lý vốn của các tổ
chức hội, đoàn thể, Tổ TK&VV; Sáu là thực hiện cải cách thủ tục hành chính,
đơn giản quy trình, thủ tục, hồ sơ vay vốn tạo nhiều thuận lợi để đối tượng thụ
hưởng dễ dàng tiếp cận với chính sách tín dụng ưu đãi cũng là nguyên nhân tạo
nên sự thành công trong thực hiện các chương trình.
- “ Quản lý hoạt đợng tín dụng tại Ngân hàng chính sách xã hợi tỉnh
Nghệ An cho các huyện tḥc chương trình 30A tỉnh Nghệ An” (2014), luận
văn thạc sỹ kinh tế của Nguyễn Văn Hùng. Trong công trình này, tác giả đã hệ
thống hố những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng và hoạt động tín dụng.
Phân tích, đánh giá thực trạng về tín dụng và hoạt động quản lý tín dụng của
NHCSXH tại các huyện 30A tỉnh Nghệ An. Đồng thời đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý tín dụng của Ngân hàng
Chính sách xã hội tại các huyện 30A tỉnh Nghệ An. Đó là các giải pháp: Thứ
nhất, Tranh thủ sự chỉ đạo của Hội đồng quản trị, Ban điều hành NHCSXH;
sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền các cấp, sự phối hợp tích cực của các
Hội đoàn thể làm ủy thác, các ngành liên quan; Thứ hai, Tổ chức thực hiện tốt
phương thức cho vay uỷ thác từng phần thông qua các tổ chức chính trị xã
hội; Thứ ba, Làm tốt cơng tác quản trị, điều hành đối với cơ sở theo phương
châm “kiên quyết, tập trung, dân chủ và hiệu quả”. Thứ tư, Thường xuyên
quan tâm đến công tác cán bộ, đào tạo, bố trí sử dụng hợp lý, tăng cường cơng
tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao ý thức chấp hành kỷ cương, kỷ luật,
nhiệt tình, tâm huyết, có năng lực chuyên môn, phong cách giao tiếp văn
minh, tạo lòng tin đối với khách hàng là nhân tố quyết định mọi thành công.
- “ Quản lý vốn vay ưu đãi hỗ trợ hợ nghèo tại Ngân hàng Chính sách
xã hợi huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình” (2014), luận văn thạc sỹ kinh tế của
8
Vũ Thị Lan. Trong cơng trình này, tác giả đã hệ thống hoá cơ sở lý luận và
thực tiễn về quản lý vốn vay ưu đãi. Đánh giá thực trạng việc quản lý vốn vay
ưu đãi tại NHCSXH huyện Yên Khánh. Đồng thời đề xuất một số giải pháp
chủ yếu nhằm quản lý có hiệu quả nguồn vốn vay ưu đãi hỗ trợ người nghèo
trên địa bàn huyện n Khánh, tỉnh Ninh Bình. Đó là các giải pháp: (1) Nâng
cao khả năng tự chủ về vốn nhằm phục vụ công tác cho vay của NHCSXH;
(2) Thực hiện tốt công tác cho vay thông qua các tổ chức chính trị- xã hội tại
địa phương; (3) Tăng cường kiểm sốt việc sử dụng vốn vay thơng qua các tổ
chức chính trị- xã hội; (4) Tăng mức độ linh hoạt trong giải ngân; (5) Kết hợp
cung ứng vốn tín dụng với công tác khuyến nông và dạy nghề cho hộ nghèo.
1.1.3. Kết quả nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu
*. Kết quả nghiên cứu
Các cơng trình trên đã đề cập ở các mức độ khác nhau, các khía cạnh
khác nhau vấn đề quản lý tín dụng đối với hộ nghèo, trong đó tập trung làm rõ
vai trò, sự cần thiết, tác động của tín dụng NHCSXH đối với cơng cuộc xóa
đói giảm nghèo; phân tích, đánh giá hoạt động quản lý tín dụng hộ nghèo của
NHCSXH, kể cả ở cấp Trung ương và các địa phương.
Các cơng trình cũng đã cố gắng đề tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu để
đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả quản lý tín dụng hộ nghèo của NHCSXH.
Đó là nguồn tài liệu quý báu để tác giả tham khảo trong quá trình thực
hiện luận văn của mình.
*. Khoảng trống nghiên cứu
Vấn đề quản lý tín dụng hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh
Hà Nam thì cho đến nay vẫn còn là khoảng trống.
Vì vậy, đề tài “Quản lý tín dụng hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã
hội tỉnh Nà Nam” có nhiệm vụ lấp đầy khoảng trống đó.
9
1.2. Những vấn đề lý luận chung về quản lý tín dụng hộ nghèo của Ngân
hàng chính sách xã hội
1.2.1. Hộ nghèo và các điều kiện cần thiết để thoát nghèo
1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hộ nghèo
*. Khái niệm
Tình trạng đói nghèo ở mỡi quốc gia đều có sự khác nhau về cấp độ và
số lượng, thay đổi theo thời gian. Người nghèo của quốc gia này có thể có
mức sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác. Bởi vậy, để nhìn
nhận và đánh giá được tình trạng đói nghèo của một quốc gia, một vùng và
nhận dạng được hộ đói, nghèo, để từ đó có giải pháp phù hợp để XĐGN, đòi
hỏi phải có sự thống nhất về khái niệm và các tiêu chí để đánh giá đói nghèo
tại từng thời điểm.
Phải khẳng định rằng khơng có định nghĩa duy nhất về đói, nghèo.
Trước đây, người ta thường đánh đồng nghèo đói với mức thu nhập thấp, xem
thu nhập là tiêu chí chủ yếu để đánh giá sự nghèo đói của con người. Quan
niệm này có ưu điểm là thuận lợi trong việc xác định số người nghèo dựa theo
chuẩn nghèo, ngưỡng nghèo. Nhưng thực tế đã chứng minh việc xác định đói
nghèo theo thu nhập chỉ đo được một phần của chất lượng sống. Thu nhập
thấp khơng phản ánh hết được các khía cạnh của đói nghèo, nó khơng cho
chúng ta biết được mức khốn khổ và cơ cực của những người nghèo. Do đó
quan niệm này còn nhiều hạn chế.
Hiện nay ở Việt Nam có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh khái niệm
nghèo đói, song ý kiến chung nhất cho rằng: Ở Việt Nam thì tách riêng đói và
nghèo thành hai khái niệm riêng biệt.
- Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thỏa mãn
một phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp
hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
10
- Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu và vật chất để duy trì cuộc sống.
Đó là các hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ 1 đến 3 tháng, thường vay
mượn cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. Giá trị đồ dùng trong nhà không
đáng kể, nhà ở dột nát, con thất học...
Qua các định nghĩa trên, có thể đưa ra định nghĩa chung về hộ nghèo:
Đó là những hộ dân cư có mức thu nhập thực tế bình quân đầu người thấp
hơn chuẩn nghèo trong năm. Còn chuẩn nghèo là số tiền đảm bảo mức tiêu
dùng thiết yếu (bao gồm cả lương thực thực phẩm và phi lương thực thực
phẩm) cho 1 người trong 1 tháng, trong đó mức thu nhập thực tế là thu nhập
hiện hành của hộ dân cư tại thời gian điều tra sau khi đã loại trừ ảnh hưởng
của giá cả theo thời gian (theo tháng) và không gian (theo thành thị, nông
thôn các vùng).
Vào năm 2000, chuẩn hộ nghèo của nước ta đã được điều chỉnh cho
phù hợp với chuẩn quốc tế. Theo chuẩn mực phân loại hộ nghèo áp dụng cho
thời kỳ 2001- 2005, thì hộ nghèo là hộ có thu nhập bình qn đầu người
hàng tháng như sau: 80.000 đồng/người/tháng ở các vùng hải đảo và vùng
miền núi nông thôn; 100.000 đồng/người/tháng ở các vùng đồng bằng nông
thôn và 150.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị. Theo tiêu chí đánh
giá này, thì thời điểm đầu năm 2001 cả nước ta có khoảng 2,7 triệu hộ
nghèo, tỷ lệ 17,3%.
Theo quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng trong giai đoạn 2006 - 2010: Đối với khu
vực thành thị: Hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình qn đầu người 1
tháng dưới 260.000 đồng; Đối với khu vực nơng thơn: Hộ nghèo là những hộ
gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người 1 tháng dưới 200.000 đồng.
Theo tiêu chí này, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam năm 2006 là 15,47%.
11
Theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg về việc ban hành chuẩn hộ
nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015 như sau:
- Hộ nghèo ở nông thơn là hộ có mức thu nhập bình qn từ 400.000
đồng/người/tháng trở xuống; hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình
qn từ 500.000 đồng/người/tháng trở xuống. Theo tiêu chí này, tỷ lệ hộ
nghèo ở Việt Nam vào cuối năm 2011 là 12,6%.
- Hộ cận nghèo ở nơng thơn là hộ có mức thu nhập bình qn từ
401.000 đồng/người/tháng đến 520.000 đồng/ người/tháng; hộ cận nghèo ở
thành thị là hộ có mức thu nhập bình qn từ 501.000 đồng/người/tháng đến
650.000 đồng/ người/tháng.
Ở nước ta trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng
kể. Tuy nhiên, bên cạnh sự tăng thu nhập và nâng cao đời sống của số đông dân
chúng, vẫn còn tồn tại một bộ phận dân cư sống nghèo khổ, đặc biệt là những hộ
nông dân nghèo sống tập trung ở các vùng nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng
sâu, vùng xa... Chính vì vậy, trong xã hội sự phân hoá giàu nghèo đang diễn ra
ngày một sâu sắc, khoảng cách giàu, nghèo ngày càng rộng. Đây là một thách
thức lớn đặt ra đòi hỏi phải có những chính sách và giải pháp phù hợp, đi đôi với
phát triển kinh tế - xã hội phải thực hiện thành cơng chương trình, mục tiêu quốc
gia về XĐGN.
*. Đặc điểm
Qua nghiên cứu về các hộ gia đình nghèo, nhóm dân nghèo cho thấy
nổi lên một số đặc điểm chính sau đây:
Thứ nhất, người nghèo đa phần là những nông dân sống ở các vùng
nông thôn, cơ bản họ vẫn còn tư liệu sản xuất như ruộng đất. Nhưng họ thiếu
vốn, thiếu kinh nghiệm, thiếu kiến thức sản xuất. Đó chính là một trong
những cơ sở tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả chính sách xố đói giảm
12
nghèo. Khi có chính sách và sự hỡ trợ thích đáng của Nhà nước, người nghèo
sẽ có cơ hội tiếp xúc với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội để vượt qua đói
nghèo bằng chính sức lao động của mình.
Thứ hai, đa số người nghèo có trình độ học vấn thấp, bị hạn chế về khả
năng tiếp cận kỹ năng, kỹ thuật sản xuất tiên tiến và những thông tin thị
trường. Trong sản xuất thường đạt hiệu quả thấp, chậm tiếp thu và thiếu
những điều kiện áp dụng những kỹ thuật tiên tiến, thiếu những kiến thức về
kinh tế thị trường.
Thứ ba, những hộ nghèo thường rất dễ bị tổn thương bởi những biến cố
khách quan mang tính thời vụ hoặc những biến động bất thường xảy ra như:
sự biến động về giá thị trường của mặt hàng nông sản sản xuất hoặc những
biến cố thiên nhiên như: hạn hán, lũ lụt, bão,...Người nghèo thường không đủ
nguồn lực để chống đỡ khi có biến cố xảy ra.
Thứ tư, các hộ nghèo thường có nhiều con hoặc có ít lao động trong gia
đình, chịu những áp lực lớn về chi phí y tế, giáo dục. Những hộ nghèo do có ít
lao động nên có thu nhập ít, hoặc có thu nhập nhưng con đông không đủ để
trang trải các chi phí y tế, giáo dục, vì vậy các khoản chi phí dịch vụ về y tế,
giáo dục thường là gánh nặng về tài chính đối với người nghèo. Trẻ em - con
của dân nghèo phần lớn ít có khả năng đến trường và bị hạn chế trong việc
chăm sóc sức khoẻ nên thường bị suy dinh dưỡng, bệnh tật. Bị rơi vào vòng
đói nghèo khơng có khả năng đáp ứng cho các chi phí y tế, giáo dục, cho nên
con em họ tiếp tục sống trong hồn cảnh đói, nghèo.
Thứ năm, các hộ nghèo thuộc dân tộc ít người thường chịu nhiều bất lợi
do bị tách biệt về mặt địa lý và về mặt xã hội, chịu nhiều tốn kém cho những
phong tục lạc hậu, còn sống theo tập quán du canh, du cư, vệ sinh môi trường
kém, thường bị nhiều bệnh tật, thiếu thốn về vốn, nhân lực, vật lực, cuộc sống
chịu tác động trực tiếp của thiên nhiên đến quá trình sản xuất.
13
1.2.1.2. Điều kiện cần thiết để thốt nghèo
Để các hộ nghèo có thể thốt nghèo, cần phải có các điều kiện sau:
Thứ nhất, phải có vốn để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh.
Với bất kỳ một ai, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh được đều phải
có lượng vốn nhất định. Đây là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất cho hoạt
động sản xuất kinh doanh. Có vốn, hộ gia đình mới có điều kiện để trang bị
các thiết bị, nguyên vật liệu, con giống… cần thiết cho hoạt động sản xuất
kinh doanh. Bên cạnh đó, vốn còn đảm bảo cho q trình sản xuất kinh doanh
được diễn ra liên tục từ mua sắm vật tư, chăm sóc, ni trồng, sản xuất cho
đến tiêu thụ sản phẩm. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại và
phát triển phải áp dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất lao động,
chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm. Để thực hiện được cả quá trình
trên thì hộ gia đình phải có vốn để đầu tư.
Như vậy, vốn có một vai trò rất quan trọng trong mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh, đặc biệt đối với những hộ nghèo. Thiếu vốn, đó là một trong
những nguyên nhân dẫn đến hộ gia đình trở thành hộ nghèo.
Tín dụng chính sách đối với hộ nghèo sẽ góp phần giải quyết được vấn
đề về vốn sản xuất kinh doanh cho hộ nghèo.
Thứ hai, người nghèo phải có kiến thức tối thiểu về kỹ thuật sản xuất
kinh doanh và kỹ năng tiếp cận thị trường.
Để có thể thốt nghèo, hộ nghèo cần được trang bị, tiếp cận những kiến
thức, kỹ thuật sản xuất kinh doanh mới, đem lại năng suất lao động cũng như
hiệu quả cao. Nói khác đi, một khi người nghèo có kiến thức, kỹ năng về sản
xuất và thị trường, họ sẽ biết cần phải sản xuất cái gì, sản xuất thế nào và bán
ở đâu để có lợi nhất, khi đó họ sẽ có thu nhập cao hơn, khơng chỉ thốt nghèo
mà còn có thể trở nên giàu có.
14
Thực tế cho thấy, đại đa số hộ nghèo ở Việt Nam hiện nay đều thiếu
kiến thức và kỹ năng về sản xuất. Nói cách khác, phương pháp canh tác cổ
truyền đã ăn sâu vào tiềm thức của họ, vì vậy họ khơng có kiến thức về
marketting ; thị trường; sản phẩm đầu ra hạn hẹp, chủ yếu là hàng sơ chế nên
giá trị thấp. Hơn nữa sản phẩm làm ra chưa xuất phát từ nhu cầu của thị
trường (bán sản phẩm của mình có, chứ khơng bán cái mà thị trường cần).
Những người sống ở những vùng xa xôi hẻo lánh, giao thơng đi lại khó khăn,
thiếu phương tiện thơng tin liên lạc, con cái thất học khơng có cơ hội tiếp cận
với khoa học kỹ thuật sản xuất mới hay ngành nghề mới nên khơng tìm được
việc làm, dẫn đến nghèo đói vì khơng có thu nhập. Đây cũng là một trong
trong những nguyên nhân chính dẫn tới nghèo.
Trên thực tế, khả năng tiếp cận thị trường là một trong những hạn chế
rất lớn đối với người nghèo. Hộ nghèo thường gặp khó khăn và thiếu tự tin
trong việc giải quyết các vấn đề của chính bản thân mình. Về giao tiếp xã hội,
người nghèo thường quan hệ với những người nghèo như mình, hoặc nghèo
hơn mình, khơng muốn quan hệ với những người khá giả hơn mình. Từ đó,
càng làm hạn chế về khả năng tiếp cận tư duy mới, cũng như kinh nghiệm làm
kinh tế giỏi. Hơn nữa, hộ nghèo thường thiếu thông tin, khả năng nắm bắt thị
trường cũng gặp nhiều hạn chế, từ đó sản phẩm sản xuất ra không được tiêu
thụ hoặc không đạt hiệu quả.
Thứ ba, phải có sự hỡ trợ của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong
xã hội đối với hộ nghèo.
Hỗ trợ người nghèo là một đòi hỏi khách quan. Xuất phát từ căn
nguyên của sự đói nghèo, nó khẳng định một điều: mặc dù kinh tế đất nước có
tăng trưởng nhưng nếu khơng có chính sách và chương trình riêng về XĐGN
thì các hộ nghèo cũng khơng tự thốt khỏi đói nghèo được. Chính vì vậy,
Chính phủ đã đề ra nhiều chính sách đặc biệt để trợ giúp người nghèo nhằm
dần dần thu hẹp khoảng cách giữa giàu và nghèo nhưng không phải tạo ra cơ
15
chế bao cấp mà tạo ra cơ hội cho người nghèo vươn lên bằng những chính
sách và giải pháp cụ thể, như:
- Tiến hành điều tra, nắm được tình trạng hộ nghèo và thực hiện nhiều
chính sách đồng bộ như: tạo cơng ăn việc làm, chuyển giao kỹ thuật, xây
dựng cơ sở hạ tầng với quy mô nhỏ ở vùng nghèo, cho hộ nghèo vay vốn,
cung cấp thông tin cần thiết tạo điều kiện cho hộ nghèo có thể tiếp cận với thị
trường và hồ nhập với cộng đồng.
- Hỡ trợ về giáo dục, y tế, hướng dẫn hộ nghèo cách thức làm ăn,
khuyến nơng, khuyến lâm, khuyến ngư…
- Có các chương trình hỡ trợ đặc biệt đối với các dân tộc thiểu số có
khó khăn đặc biệt.
- Thực hiện định canh, định cư, di dân kinh tế mới.
- Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác XĐGN và cán bộ các
xã thuộc vùng nghèo, xã đặc biệt khó khăn.
- Thực hiện một số chính sách khuyến khích và giúp đỡ hộ nghèo như
miễn giảm học phí, viện phí… Đối với hộ nghèo không còn khả năng lao
động tạo ra nguồn thu nhập để nuôi sống bản thân, nhà nước sẽ trợ cấp hàng
tháng và vận động các tổ chức đoàn thể, quần chúng các nhà hảo tâm giúp đỡ
dưới nhiều hình thức khác nhau.
- Mở rộng sự hợp tác quốc tế với các chính phủ, các tổ chức phi chính
phủ để giúp đỡ nhau về nguồn lực và trao đổi kinh nghiệm trong XĐGN.
Theo kinh nghiệm thực tiễn nhiều nước trong khu vực cũng như trên
thế giới, việc cung cấp nguồn tài chính cho cơng cuộc XĐGN thường theo hai
phương thức, đó là: phương thức trợ cấp thơng qua kênh cứu tế xã hội và
phương thức hỗ trợ thông qua kênh tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo.
Tại Việt Nam, việc trợ cấp thông qua kênh cứu tế xã hội chỉ áp dụng
đối với những người có hồn cảnh đặc biệt, khơng thể tự mình lao động sản
16
xuất để tạo ra của cải vật chất, như những người già cả, neo đơn, người bị tàn
tật, trẻ em mồ côi… hoặc những đối tượng Nhà nước thực hiện chính sách
đền ơn, đáp nghĩa.
Phương thức cung cấp tài chính thơng qua kênh tín dụng cho người
nghèo, đây là một trong những phương thức thương mại hố dần các nguồn
tài chính phục vụ cho XĐGN. Phương thức này làm giảm dần phương thức
bao cấp thông qua kênh cứu tế xã hội của Nhà nước và phương thức này ngày
càng được phổ biến và đánh giá là hữu hiệu hơn cả.
1.2.2. Tín dụng hộ nghèo của Ngân hàng chính sách xã hội
1.2.2.1. Khái niệm và đặc điểm tín dụng hộ nghèo của NHCSXH
*. Khái niệm
Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên ngun tắc có hồn trả (cả vốn
và lãi) sau một thời gian nhất định. Tín dụng biểu hiện mối quan hệ kinh tế
gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng, nhằm mục đích thỏa
mãn nhu cầu vay vốn tạm thời cho quá trình sản xuất và đời sống, theo
ngun tắc hồn trả có thời hạn và có lợi tức. Tín dụng ngân hàng phản ánh
quan hệ vay mượn vốn tiền tệ giữa các ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác
nhau trong nền kinh tế.
Tín dụng đối với hộ nghèo là những khoản tín dụng chỉ dành riêng cho
những người nghèo, có sức lao động, nhưng thiếu vốn để phát triển sản xuất
trong một thời gian nhất định phải hoàn trả số tiền gốc và lãi, tùy theo từng
nguồn có thể hưởng theo lãi suất ưu đãi khác nhau nhằm giúp người nghèo
mau chóng vượt qua nghèo đói vươn lên hòa nhập cùng cộng đồng.
Có thể nói, tín dụng hộ nghèo là tín dụng ưu đãi của Ngân hàng Chính
sách xã hội đối với hộ nghèo nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh, cải thiện đời
sống theo nguyên tắc phải hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay.
17