Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.26 KB, 71 trang )
giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu” .
Các nhà kinh tế học hiện đại, đã nghiên cứu và đưa ra rất nhiều định nghĩa khác
nhau về tín dụng. Nhà kinh tế học A.Arerit và Ksuk định nghĩa tín dụng như sau: “Tín
dụng phát sinh giữa một bên (người cho vay) trao cho bên khác (người đi vay) quyền
sử dụng một số tiền nhất định, trong đó người đi vay có nhiệm vụ phải trả lại số tiền
vay đó đúng hạn quy định. Để có quyền sử dụng tư bản đó bên đi vay phải trả một
khoản bồi thường, tức là lợi tức ”.Theo Opst và Khimt Nher, đặc trưng của quan hệ
tín dụng là “người cho vay thực hiện ngay nghĩa vụ của mình nhưng chỉ nhận được
quyền lợi trong tương lai xa hơn. Những rủi ro đặc biệt của hành động tín dụng chủ
yếu xuất phát từ đó” .Theo hai cách định nghĩa này, tín dụng được hiểu là quan hệ
nhường quyền sử dụng tiền trong hiện tại để đổi lấy quyền hưởng lợi tức trong tương
lai. Ở đây, tính chất sinh lời và rủi ro của hoạt động tín dụng được nhấn mạnh.
Dưới góc độ hẹp của tài chính ngân hàng, tín dụng được hiểu như sau:
- Xét trên góc độ chuyển dịch tiền từ chủ thể có tiền nhàn rỗi sang chủ thể thiếu
hụt tiền cho nhu cầu sử dụng thì tín dụng được coi là kênh chuyển tiền từ người cho
vay sang người đi vay.
- Trong quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về quyền sử dụng tài
sản trên cơ sở cam kết nhường quyền sử dụng có kỳ hạn đi đơi với nghĩa vụ hồn trả
cả vốn và lãi.
- Trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng còn có nghĩa là hoạt động cho vay của
ngân hàng, độc lập tương đối với hoạt động huy động vốn.
Từ những phân tích nêu trên, phù hợp với thơng lệ của ngành ngân hàng coi tín
dụng là hoạt động cho vay, có thể hiểu tín dụng là hoạt động cho vay thơng qua việc
chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ NHTM sang người vay - khách hàng trên
cơ sở hợp đồng tín dụng với cam kết bảo đảm bằng tài sản hoặc uy tín của người đi
vay, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả được NHTM chấp nhận theo kỳ hạn
và lãi suất thỏa thuận giữa NHTM và người vay.
2.1.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Cùng với sự phát triển ngày càng tinh vi, sâu sắc với quy mơ rộng lớn của kinh tế
thị trường các hình thức kinh doanh ngân hàng nói chung,hình thức tín dụng nói riêng
cũng phát triển hết sức đa dạng và phong phú nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu của khách hàng, trên cơ sở đó đa dạng hố các danh mục đầu tư, thu hút khách
hàng, tăng lợi nhuận, thực hiện phân tán rủi ro và củng cố sức mạnh cạnh tranh.Có thể
phân loại các hình thức tín dụng ngân hàng theo nhiều cách khác nhau.
2.1.3.1. Phân loại dựa trên nghiệp vụ ngân hàng.
Theo cách này NHTM có một số loại hình tín dụng chủ yếu sau:
9
+ Cho vay ứng trước: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cung cấp cho
người đi vay một khoản tiền nhất định để sử dụng trước. Người đi vay chỉ phải trả lãi
vào lúc hồn trả vốn gốc, có hai loại cho vay ứng trước: Cho vay ứng trước có bảo
đảm và cho vay ứng trước khơng có bảo đảm.
+ Cho vay theo hạn mức: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng và khách
hàng thỏa thuận trước số tiền tối đa (gọi là hạn mức tín dụng) mà khách hàng được vay
từ ngân hàng trong một khoản thời gian nhất định (thường là 12 tháng). Sau khi đã
thỏa thuận về hạn mức tín dụng, khách hàng có thể nhận nợ làm nhiều lần mà không
phải làm đơn xin vay với điều kiện tổng số tiền nhận nợ không vượt quá hạn mức tín
dụng đã được ký kết.
+ Cho vay thấu chi: Là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trong đó ngân
hàng cho phép khách hàng chi vượt quá số dư trên tài khoản vãng lai trong một hạn
mức và thời hạn nhất định trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng
đã được ký kết. Mức tín dụng trong cho vay thấu chi chưa phải là khoản tiền cho vay
mà chỉ khi nào khách hàng sử dụng thấu chi thì mới được coi là tín dụng được cấp
phát và bắt đầu tính tiền lãi.
+ Cho vay chiết khấu: Là cho vay dưới hình thức NHTM mua lại các thương
phiếu chưa đến hạn trả tiền với giá thấp hơn số tiền ghi trên thương phiếu. Khi đến
hạn, ngân hàng sẽ đòi tồn bộ số tiền ghi trên thương phiếu ở người trả tiền thương
phiếu. Phần lãi của ngân hàng chính là chênh lệch giữa giá mua và số tiền ghi trên
thương phiếu.
+ Tín dụng ủy thác thu hay bao thanh toán (Factoring): Là nghiệp vụ trong đó
cơng ty con của ngân hàng cam kết mua lại các khoản thanh toán chưa tới hạn phát
sinh từ những hoạt động xuất khẩu, cung ứng hàng hóa và dịch vụ với giá chiết khấu.
Các khoản nợ này thường là ngắn hạn (từ 30 đến 120 ngày).
+ Tín dụng th mua (Leasing): Là hình thức tín dụng trung, dài hạn được thực
hiện thông qua cho thuê tài sản như máy móc, thiết bị, các động sản và bất động sản
khác theo yêu cầu khách hàng và nắm giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê. Bên thuê sử
dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa
thuận và không được hủy bỏ hợp đồng trước hạn. Khi hết thời hạn thuê, bên thuê được
chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó tùy theo các điều khoản đã
thỏa thuận trong hợp đồng thuê.
+ Tín dụng bảo lãnh: Là hình thức tín dụng ngân hàng không trực tiếp cho khách
hàng vay bằng tiền mà bằng uy tín của ngân hàng thơng qua việc phát hành chứng thư bảo
lãnh, ngân hàng cam kết thực hiện một nghĩa vụ trong tương lai đối với người thụ hưởng
10
bảo lãnh. Khi đến hạn, nếu người được bảo lãnh không có khả năng thực hiện cam kết thì
NHTM bảo lãnh buộc phải thực hiện cam kết đã thỏa thuận.
2.1.3.2. Phân loại theo thời hạn tín dụng.
Theo cách phân loại này, tín dụng ngân hàng có các loại tín dụng ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn.
+ Tín dụng ngắn hạn: là hoạt động cho vay có thời hạn khơng q 12 tháng. Tín
dụng ngắn hạn thường được khách hàng sử dụng nhằm bổ sung vốn lưu động và trang
trải các nhu cầu thiếu hụt vốn tạm thời.
+ Tín dụng trung hạn: là hoạt động cho vay có thời hạn từ một năm đến 5 năm.
Mục đích của loại hình tín dụng này là khách hàng muốn huy động vốn để đầu tư, cải
tạo tài sản cố định, trang trải các nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi
mới thiết bị công nghệ, xây dựng các dự án mới có quy mơ nhỏ và thời hạn thu hồi
vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: có thời gian trên 5 năm. Mục đích của loại hình tín dụng này
là tài trợ các dự án lớn có thời gian thu hồi vốn lâu dài.
2.1.3.3. Phân loại theo hình thức bảo đảm tiền vay.
Theo cách phân loại này, có các loại hình tín dụng có tài sản đảm bảo và tín dụng
khơng có tài sản đảm bảo:
+ Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: Là loại tín dụng dựa trên cơ sở các tài sản
bảo đảm tiền vay như thế chấp, cầm cố tài sản hợp pháp của khách hàng hoặc bảo đảm
bằng tài sản của bên thứ ba có cam kết. Sự bảo đảm bằng tài sản là căn cứ pháp lý để
ngân hàng có nguồn thu nhập khác trong trường hợp khách hàng khơng trả nợ vay
thơng qua hình thức phát mãi tài sản thế chấp, cầm cố.
+ Tín dụng khơng có bảo đảm bằng tài sản: Là loại tín dụng khơng có tài sản thế
chấp, cầm cố mà việc cho vay của ngân hàng chỉ dựa vào uy tín, năng lực tài chính của
khách hàng. Muốn hưởng loại hình tín dụng này khách hàng phải hội đủ các điều kiện
sau:
Có uy tín, được ngân hàng tín nhiệm trong việc sử dụng đúng mục đích vốn vay,
thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay đúng hạn cả gốc lẫn lãi trong quá khứ.
Có dự án, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có khả năng hồn trả
nợ và lãi vay, phương án, dự án phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay đúng hạn.
2.1.3.4. Phân loại theo mục đích sử dụng vốn.
Theo cách phân loại này, có các loại hình tín dụng bất động sản, tín dụng cơng
thương nghiệp, tín dụng nơng nghiệp và tín dụng tiêu dùng:
+ Tín dụng bất động sản: là loại tín dụng liên quan đến việc cho vay mua sắm và
11
xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
+ Tín dụng cơng thương nghiệp: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu
động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
+ Tín dụng nơng nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân
bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu…
+ Tín dụng tiêu dùng: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua
sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản cho vay để
trang trải các chi phí thơng thường của đời sống thơng qua phát hành thẻ tín dụng.
2.1.3.5. Phân loại theo phương thức hồn trả nợ vay.
Theo cách này có loại hình tín dụng trả góp, tín dụng trả một lần cuối kỳ, tín
dụng hồn trả theo u cầu:
+ Tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hồn trả vốn gốc và lãi
theo định kỳ. Loại tín dụng này thường áp dụng cho vay bất động sản, nhà ở, cho vay
tiêu dùng, cho vay đối với những người kinh doanh nhỏ, cho vay trang bị kỹ thuật
nơng nghiệp.
+ Tín dụng hoàn trả một lần cuối kỳ: là loại cho vay thanh toán một lần cả gốc và
lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng.
+ Tín dụng hồn trả theo u cầu: là loại hình tín dụng áp dụng kỹ thuật thấu chi
theo chính sách tín dụng cho từng trường hợp cụ thể.
2.1.3.6. Phân loại tín dụng theo xuất xứ.
Theo cách này có các loại tín dụng trực tiếp, gián tiếp:
+ Tín dụng trực tiếp: là loại hình tín dụng trong đó ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho
người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
+ Tín dụng gián tiếp: là loại hình tín dụng trong đó ngân hàng cho vay thông qua
việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ đã phát sinh còn trong thời hạn thanh tốn
2.1.4. Đặc điểm của tín dụng NHTM
Khác với các loại hình tín dụng khác, tín dụng ngân hàng mang một số đặc trưng
sau đây:
- Tín dụng ngân hàng là phương thức kinh doanh chính của ngân hàng. Nếu trong
các quan hệ tín dụng khác, ví dụ tín dụng hàng hóa, người tham gia hoạt động tín dụng
chỉ coi đó một hành vi phụ thêm phục vụ hoạt động kinh doanh chính của họ nên lãi suất
không phải là mối quan tâm hàng đầu. Trong khi đó, đối với ngân hàng, vấn đề lãi suất
lại rất được chú trọng do đó là giá cả dịch vụ ngân hàng, là yếu tố quyết định lợi nhuận
và sức cạnh tranh của ngân hàng. Chính vì vậy, các NHTM thường đặt chính sách lãi
suất là trọng tâm trong chiến lược kinh doanh.
12
- Các khoản tín dụng của ngân hàng đều phải hoạch định thời hạn, lãi suất một
cách khoa học, hợp lý để ngân hàng có thể chủ động hồn trả vốn huy động và khơng
để ứ vốn để chịu lãi khống. Chính vì thế, khi xác định thời hạn cho vay hợp lý, ngân
hàng phải căn cứ vào tính chất thời hạn nguồn vốn của mình và quá trình sử dụng vốn
của đối tượng vay. Nếu ngân hàng có nguồn vốn dài hạn ổn định thì có thể cấp được
các khoản tín dụng dài hạn. Ngược lại, nếu nguồn vốn của ngân hàng không ổn định
và phải bù đắp bằng các khoản vốn huy động có kỳ hạn ngắn thì khả năng cấp tín dụng
dài hạn là khó khăn. Mặt khác, thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển
vốn của đối tượng vay thì người vay mới có điều kiện trả nợ đúng hạn. Nếu ngân hàng
xác định thời hạn vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì khách
hàng khơng có đủ nguồn để trả nợ khi đến hạn, gây khó khăn cho khách hàng. Ngược
lại, nếu thời hạn cho vay lớn hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách
hàng sử dụng vốn vay khơng đúng mục đích, tiềm ẩn rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
- Tín dụng ngân hàng chịu sự điều tiết của chính sách tiền tệ quốc gia. Đôi khi,
để ổn định vĩ mô nền kinh tế, NHNN đưa ra các chính sách can thiệp vào quy mơ, hạn
mức, lãi suất tín dụng theo chiều hướng bất lợi cho NHTM, nhưng NHTM vẫn phải
chấp hành. Đặc biệt, vào thời điểm kinh tế tăng trưởng nóng, khách hàng khát vốn, lãi
suất họ có thể chấp nhận chênh lệch so với lãi suất huy động lớn, nhưng NHTM không
thể cho vay vượt quá quy định của NHNN. Hoặc trong điều kiện lạm phát, để huy
động được vốn, NHTM phải đưa ra lãi suất thực dương đồng thời phải đáp ứng yêu
cầu dự trữ cao của NHNN nên khó cho vay, nguy cơ thua lỗ lớn.
- Tín dụng ngân hàng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro rất cao. Khoản tiền mà ngân
hàng cho vay là rất lớn so với khoản lãi thu về. Trong khi đó, việc có thu hồi được vốn
hay không lại không những phụ thuộc vào bản thân khách hàng mà còn chịu ảnh
hưởng của mơi trường kinh doanh, biến động thị trường thế giới, thiên tai ngồi tầm
kiểm sốt của cả khách hàng lẫn ngân hàng. Khi khách hàng gặp khó khăn, khi mơi
trường kinh doanh khơng thuận lợi hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng khó khăn
theo. Trong trường hợp khách hàng phá sản, thiên tai, khủng hoảng kinh tế,… ngân
hàng có thể lâm vào tình trạng mất vốn, nợ khó đòi lớn ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động của ngân hàng.
- Tín dụng ngân hàng phải tuân thủ các quy định pháp lý chặt chẽ của cả nhà
nước lẫn cam kết trong hợp đồng. Quá trình xin vay và cho vay phải tuân thủ những
13
quy định pháp lý dân sự và tín dụng chặt chẽ như: phải vay theo Hợp đồng tín dụng,
khế ước vay tiền, hợp đồng bảo đảm tiền vay, bảo lãnh,…, trong đó nhà nước cam kết
bảo hộ quyền tài sản của các bên giao dịch theo luật thông qua xét xử của toàn án hoặc
trọng tài, người đi vay phải cam kết hồn trả vơ điều kiện khoản vay cho ngân hàng
khi đến hạn, các quy định về xử lý tài chính khi bên đi vay khơng có khả năng trả nợ
đến hạn…
2.2. Hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại.
2.2.1. Quan niệm về hiệu quả tín dụng ngân hàng thương mại
Bất cứ hoạt động nào cũng đòi hỏi tiêu tốn những chi phí và mang lại những kết
quả nhất định. Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc
làm mang lại”. Vì vậy, có thể khẳng định rằng: Mối quan hệ giữa kết quả đạt được và
chi phí bỏ ra chính là căn cứ cơ bản để đo lường hiệu quả và được xác định theo công
thức sau:
H=
Hoạt động chỉ mang lại hiệu quả khi và chỉ khi chỉ tiêu này lớn hơn 1, chỉ tiêu
này càng lớn hơn 1 bao nhiêu, hoạt động càng có hiệu quả cao bấy nhiêu. Ngược lại,
khi chỉ tiêu này nhỏ hơn hay bằng 1, hoạt động xem như không đem lại hiệu quả. Đây
là quan niệm chung nhất về hiệu quả. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào chủ thể và mục tiêu đặt
ra mà kết quả đạt được có thể là lợi ích kinh tế hoặc lợi ích xã hội hoặc là cả lợi ích
kinh tế lẫn lợi ích xã hội. Vì vậy, chúng ta thường có hai phạm trù về hiệu quả đó là:
Phạm trù hiệu quả kinh tế và phạm trù hiệu quả xã hội.
Đối với các NHTM, hoạt động tín dụng hiện vẫn là hoạt động mang lại phần lớn
thu nhập cho các ngân hàng, vì vậy, hiệu quả tín dụng là vấn đề hết sức quan trọng và
luôn là mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng. Nếu nhìn từ phương diện chủ thể tham
gia, một quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng thì đơn giản chỉ là quan hệ
giữa người cho vay và người đi vay. Người đi vay có nghĩa vụ hồn trả cả gốc và lãi
đúng thời hạn. Người cho vay có trách nhiệm giải ngân đúng quy trình. Như vậy, giữa
hai chủ thể đã hoàn thành trách nhiệm với nhau. Nhưng xét một cách tổng thể, quan hệ
tín dụng khơng chỉ có vậy mà nó còn đặt trong mối quan hệ với các mặt khác nhau của
xã hội. Chính vì vậy, khi đề cập đến phạm trù hiệu quả TDNH, chúng ta phải xuất phát
từ bản chất của nó, đó là: Vốn cho vay của ngân hàng được khách hàng sử dụng vào
quá trình SXKD, dịch vụ một cách hiệu quả nhằm tạo ra một lượng tiền lớn hơn để
hoàn trả cho ngân hàng. Qua quá trình chu chuyển tiền tệ này, ngân hàng sẽ thu lại
14
được vốn đã cho vay và tiền lãi, khách hàng thì sử dụng vốn đi vay của ngân hàng để
đáp ứng yêu cầu về vốn cho hoạt động kinh doanh của mình một cách có hiệu quả.
Như vậy, khi đánh giá hiệu quả TDNH ta đánh giá trên hai góc độ, đó là hiệu
quả kinh tế và hiệu quả xã hội như việc làm, thu nhập của người lao động, ổn định
chính trị,...
Thứ nhất, vốn đầu tư của ngân hàng đã mang lại cho ngân hàng những lợi ích
kinh tế nào.
Thứ hai, vốn đầu tư của ngân hàng đã làm gì để góp phần thực hiện các chỉ tiêu
kinh tế, xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững.
Trong 2 góc độ trên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu hiệu quả tín dụng trên góc
độ thứ nhất là mang lại cho ngân hàng những lợi ích kinh tế như thế nào.
2.2.2. Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả tín dụng của ngân hàng thương mại
dưới góc độ mang lại lợi ích kinh tế cho ngân hàng.
2.2.2.1. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận:
- Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng = Doanh thu từ hoạt động tín dụng – Chi phí từ
hoạt động tín dụng.
- Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng chiếm 90-95% tổng lợi nhuận của NHTM. Nếu
lợi nhuận của một Ngân hàng nào đó tăng lên hàng năm, điều đó chứng tỏ chất lượng
tín dụng được nâng lên. Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng cho vay thì thu được bao
nhiêu đồng lợi nhuận, nó thể hiện khả năng sinh lời của tín dụng.
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Tỷ suất lợi nhuận = ------------------------------------------------ x 100%
Tổng dư nợ tín dụng
Mặt khác:
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng = Doanh thu từ HĐTD – Chi phí từ HĐTD
= Doanh thu lãi – chi phí lãi + doanh thu khác – chi phí khác.
= Dư nợ * ( lãi suât cho vay bình quân – lãi suất huy động bình quân) + doanh
thu khác – chi phí khác.
Từ cơng thức trên;
- Dư nợ: Dư nợ càng cao lợi nhuận càng lớn
-Chi phí dự phòng là một bộ phận của chi phí khác. Nếu chi phí dự phòng giảm
thì chi phí khác cũng giảm -> Lợi nhuận tăng
Trong phạm vi nghiên cứu tại chi nhánh tác giả tập trung nghiên cứu 2 chỉ tiêu
dư nợ và nợ xấu ( Chi phí dự phòng)
2.2.2.2. Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ cho vay:h
- Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng = Dư nợ * ( lãi suât cho vay bình quân – lãi
suất huy động bình qn) + doanh thu khác – chi phí khác.
Nếu ( lãi suât cho vay bình quân – lãi suất huy động bình qn) khơng đổi, dư nợ
15
càng tăng thì lợi nhuận từ hoạt động tín dụng càng tăng.
- Ta xét chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ cho vay:
Dư nợ cho vay năm i
Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ cho vay = ( ------------------------------ - 1)x100%
Dư nợ cho vay năm i-1
Chỉ tiêu này dùng để so sánh sự tăng trưởng dư nợ tín dụng qua các năm để đánh
giá khả năng cho vay, tìm kiếm khách hàng và đánh tình hình thực hiện kế hoạch tín
dụng của ngân hàng.
Chỉ tiêu càng cao thì mức độ hoạt động của NH càng ổn định và có hiệu quả,
ngược lại NH đang gặp khó khăn, nhất là trong việc tìm kiếm khách hàng và thể hiện
việc thực hiện kế hoạch tín dụng chưa hiệu quả. Tuy nhiên, khi tỷ lệ tăng trưởng dư nợ
phát triển cao quá sẽ dẫn đến việc ngân hàng khó kiểm sốt được mục đích sử dụng
vốn vay, dòng tiền của khách hàng,… vì vậy, các NHTM đều xác định tỷ lệ tăng
trưởng dư nợ ở một con số nhất định tùy vào từng thời kỳ.
2.2.2.3. Tỷ lệ nợ xấu:
- Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng = Doanh thu lãi – chi phí lãi + doanh thu khác
– chi phí khác.
Nếu nợ xấu giảm thì chi phí dự phòng ( nằm trong chi phí khác) giảm -> Tăng lợi
nhuận từ hoạt động tín dụng.
- Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ giữa dư nợ xấu so với tổng dư nợ của NHTM ở một thời điểm
nhất định, thường là cuối tháng, quý, năm. Đây là chỉ tiêu mà bất cứ một nhà quản trị
ngân hàng nào cũng phải quan tâm, nó phản ánh chất lượng cho vay của một ngân hàng,
giúp ngân hàng đánh giá được mức độ tốt, xấu của khoản cho vay đã cấp. Nợ xấu là vấn
đề cần được quan tâm nhiều nhất, do mức độ rủi ro của nợ xấu là rất cao và nó cũng ảnh
hưởng rất nhiều tới kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng.
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = --------------------- x 100%
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu nợ xấu cho biết, trong 100 đồng tổng dư nợ thì có bao nhiêu đồng là nợ
xấu. Nợ xấu phản ảnh khả năng thu hồi vốn khó khăn, vốn của ngân hàng lúc này
khơng còn ở mức độ rủi ro thông thường nữa mà là nguy cơ mất vốn.
16
2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng ngân hàng.
Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng đặt trong môi trường đầy
những yếu tố biến động. Nó bị tác động bởi nhiều yếu tố theo chiều hướng khác nhau,
có thểthuộc về bản thân ngân hàng hoặc xuất phát từ phía khách hàng. Do vậy, các
nhân tố ảnhhưởng đến hiệu quả hoạt động TDNH được chia thành hai nhóm: bên trong
ngân hàng và bên ngoài ngân hàng.
2.2.3.1. Các nhân tố bên trong ngân hàng.
- Chính sách tín dụng ngân hàng:
Chính sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đến sự thành cơng hay thất bại của
một NHTM. Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố như hạn mức cho vay đối với
một khách hàng, kỳ hạn của khoản tín dụng, lãi suất cho vay, mức lệ phí, các hình thức
cho vay được thực hiện, tài sản làm đảm bảo nợ, khả năng thanh tốn nợ của khách
hàng, hướng giải quyết tín dụng khi phát sinh quá hạn, các khoản vay có vấn đề...Tất
cả các yếu tố đó tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới việc mở rộng hay hạn chế tín dụng
của ngân hàng. Một ngân hàng với chính sách tín dụng đúng đắn, hợp lý, linh hoạt,
đáp ứng được tối đa nhu cầu của khách hàng về vốn thì ngân hàng đó sẽ thành cơng
trong việc thực hiện mục tiêu mở rộng tín dụng, đảm bảo khả năng sinh lợi dựa trên cơ
sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật… Vì vậy, hiệu quả của các khoản tín dụng sẽ
được nâng cao. Ngược lại, nếu như các yếu tố của chính sách tín dụng đều cứng nhắc,
khơng hợp lý, khơng đáp ứng được nhu cầu tín dụng đa dạng của khách hàng thì chính
sách tín dụng của ngân hàng đó là bất hợp lý và điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
cơng tác mở rộng tín dụng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM
.- Chất lượng cán bộ tín dụng của ngân hàng:
Đây là nhân tố hết sức quan trọng trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng. Sự thành
cơng trong hoạt động tín dụng phụ thuộc vào năng lực, trách nhiệm của cán bộ tín
dụng. Cán bộ tín dụng là người trực tiếp quản lý toàn bộ số vốn từ khi đầu tư cho đến
khi kết thúc hợp đồng tín dụng, do đó họ cần phải phân tích kỹ tình hình tài chính
doanh nghiệp, phân tích dự án của khách hàng vay vốn, quản lý và giám sát tình hình
sử dụng vốn vay
Trình độ chun mơn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng cũng quyết định đến sự
thành cơng của cơng tác tín dụng. Cán bộ tín dụng giỏi về chun mơn nghiệp vụ, có
kỹ năng, kinh nghiệm đánh giá chính xác tính khả thi của dự án, xác định được tính
chân thực của báo cáo tài chính, dễ dàng phát hiện các hành vi cố tình lừa đảo của
17
khách hàng như: sửa chữa báo cáo tài chính, lập hồ sơ thế chấp giả, dùng một tài sản
để đi vay ở nhiều nơi,... từ đó phân tích được khả năng quản lý doanh nghiệp và năng
lực thực sự của khách hàng để quyết định có cho vay hay khơng.
Ngồi trình độ chun mơn nghiệp vụ, cán bộ tín dụng cần có sự hiểu biết sâu
rộng về pháp luật, môi trường kinh tế xã hội, đường lối phát triển của đất nước, của thị
trường… dự đốn trước được những biến động có thể xảy ra từ đó tư vấn cho khách
hàng xây dựng lại phương án kinh doanh cho phù hợp. Nghiệp vụ hoạt động hàng
ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để sử dụng các phương
tiện, phương pháp làm việc hiện đại thích ứng với sự phát triển khơng ngừng của xã
hội. Cán bộ tín dụng giỏi về chun mơn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp và sự
hiểu biết rộng chính là cơ sở để nâng cao chất lượng cơng tác tín dụng trong hoạt động
của các NHTM.
- Qui trình tín dụng:
Đảm bảo qui trình tín dụng là một việc rất quan trọng đối với mỗi hệ thống ngân
hàng, nó đảm bảo sự thống nhất trong quá trình hoạt động tín dụng của ngân hàng
thương mại.
Qui trình tín dụng bao gồm những qui định phải thực hiện trong quá trình cho
vay, thu nợ nhằm đảm bảo an tồn vốn tín dụng; được bắt đầu từ khi chuẩn bị cho vay,
phát tiền vay, kiểm tra quá trình sử dụng vốn cho đến khi thu hồi được nợ. Hiệu quả tín
dụng có đảm bảo hay khơng tùy thuộc vào việc thực hiện tốt các qui định ở từng bước
và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong qui trình tín dụng.
Trong quy trình tín dụng, bước chuẩn bị cho vay (khách hàng viết đơn xin vay và
Ngân hàng tiếp nhận và đánh giá đơn xin vay để quyết định cho vay hay không cho
vay) rất quan trọng, là cơ sở để định lượng rủi ro trong quá trình cho vay. Trong bước
này, hiệu quả tín dụng tùy thuộc về công tác thẩm định đối tượng được vay vốn cũng
như những quy định về điều kiện và thủ tục cho vay của từng NHTM.
Kiểm tra quá trình cho vay giúp ngân hàng nắm được nguyên nhân diễn biến của
khoản tín dụng đã cung cấp để có những hành động điều chỉnh hoặc can thiệp khi cần
thiết, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra.
Thu nợ và tất tốn khoản nợ là khâu quan trọng có tính quyết định tới sự tồn tại
của Ngân hàng, do đó Ngân hàng phải tích cực trong cơng tác thu nợ. Sự nhạy bén kịp
thời của Ngân hàng trong việc phát hiện kịp thời những điều kiện bất lợi xảy ra đối với
khách hàng cùng những biện pháp xử lý chính xác, đúng lúc sẽ giảm thiểu các khoản
18
nợ quá hạn và điều đó sẽ có tác dụng tích cực đối với hiệu quả tín dụng. Sự phối kết
nhịp nhành giữa các bước trong quy trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng
được ln chuyển bình thường, theo đúng kế hoạch đã định, nhờ đó đảm bảo được
hiệu quả tín dụng.
- Hệ thống thơng tin tín dụng
Thơng tin tín dụng có vai trò quan trọng trong quản lý chất lượng tín dụng. Nhờ
có thơng tin tín dụng, ngân hàng mới có thể đưa ra những quyết định đúng đắn và cần
thiết có liên quan đến hoạt động tín dụng, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay.
Thơng tin tín dụng có thể thu được từ những nguồn sẵn có ở ngân hàng qua hồ sơ của
khách hàng, qua các báo cáo định kỳ khách hàng gửi cho ngân hàng theo quy định
(như bảng tổng kết tài sản, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, báo cáo tài
chính, báo cáo tín dụng) và từ hệ thống quản lý thông tin (CIC) của NHNN, từ các cơ
quan chuyên quản lý thơng tin tín dụng ở trong và ngồi nước, từ các nguồn thông tin
khác như: Phỏng vấn khách hàng, điều tra tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của
khách hàng, điều tra thông qua các khách hàng của doanh nghiệp, thu thập thông tin từ
các cơ quan khác: Thuế, báo chí, cơ quan đảng, chính quyền địa phương, cơ quan chủ
quản…. Số lượng, chất lượng của thông tin thu nhận được có liên quan đến mức độ
chính xác trong việc phân tích, nhận định tình hình thị trường, khách hàng…để đưa
ranhững quyết định phù hợp. Vì vậy, thơng tin càng chính xác và tồn diện thì khả
năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh càng lớn, khả năng mang lại hiệu
quả tín dụng càng cao.
- Kiểm tra, kiểm soát nội bộ:
Kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực chịu nhiều rủi ro đối với hệ thống ngân hàng, do
đó mỗi ngân hàng thương mại đều phải xây dựng bộ phận kiểm tra kiểm soát nội bộ.
Đây cũng là biện pháp giúp cho Ban lãnh đạo phát hiện kịp thời những sai sót và nắm
bắt tình hình hình kinh doanh của đơn vị nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh
doanh đang được xúc tiến, phù hợp với các chính sách, đáp ứng được các mục tiêu đã
định. Cơng tác kiểm tra kiểm sốt nhằm phát hiện và loại trừ những cán bộ mất phẩm
chất, tiêu cực, tham ơ, tham nhũng gây thất thốt tài sản làm mất uy tín của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng chứa nhiều những rủi ro tiềm ẩn mà nếu chúng ta khơng kiểm
tra kiểm sốt thường xun thì sẽ không ngăn chặn và phát hiện những hành vi vi phạm
pháp luật có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng cũng như bảo vệ được tài sản, đội ngũ cán
bộ, uy tín của ngân hàng. Vì vậy, việc bố trí những cán bộ có năng lực, trình độ và trách
19