Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.37 KB, 104 trang )
74
chi dựa trên sự chỉ đạo của KBNN cấp trên tiến tới kiểm soát chi theo kết quả
đầu ra, theo nhiệm vụ và chương trình ngân sách, thực hiện phân loại các
khoản chi ngân sách nhà nước theo nội dung và giá trị đến xây dựng quy trình
kiểm sốt chi hiệu quả trên nguyên tắc quản lý theo rủi ro, phân định rõ trách
nhiệm, quyền hạn của cơ quan Tài chính, cơ quan chủ quản, Kho bạc Nhà nước
và các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước, có chế tài xử phạt hành chính theo
thơng tư 54/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện việc xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực kho bạc nhà nước theo quy định tại Nghị
định số 192/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ ngày
đối với cá nhân, tổ chức sai phạm hành chính về sử dụng ngân sách nhà nước.
Tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong cơng tác kiểm sốt chi,
bảo đảm đơn giản, rõ ràng minh bạch về hồ sơ, chứng từ, nội dung kiểm sốt,
tiến tới thực hiện quy trình kiểm sốt chi điện tử. Áp dụng các phương tiện
thông tin hiện đại, các điều kiện sẵn có về hạ tầng truyền thơng và cơng nghệ
thơng tin để thực hiện cơng khai hóa thủ tục KSC NSNN qua KBNN. Kết quả
của cải cách thủ tục hành chính phải được hướng đến đối tượng là đơn vị sử
dụng ngân sách và các nhà cung cấp cho lĩnh vưc công, một mặt đảm bảo yêu
cầu công khai, minh bạch thông tin, mặt khác đảm bảo vai trò trung gian của
KBNN bảo đảm thanh tốn cho các nhà cung cấp dịch vụ.
Quy trình thủ tục KSC NSNN đảm bảo tính khoa học, đơn giản, rõ ràng
cơng khai và minh bạch, thuận lợi cho người kiểm soát, người được kiểm soát
và người thụ hưởng, đồng thời, phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu quản lý.
Kiện toàn tổ chức bộ máy KBNN Phúc Thọ hiện đại, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả và chuyên nghiệp. Quản lý cán bộ theo khối lượng và công việc
được giao, quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm hành chính và trách nhiệm vật
chất của cán bộ trên từng vị trí cơng tác, chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ
có năng lực và trình độ chun mơn cao, sắp xếp và hợp lý hóa nguồn nhân
75
lực KBNN Phúc Thọ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mơ hình tổ chức của
Kho bạc Nhà nước.
3.2 Giải pháp hồn thiện Kiểm sốt chi ngân sách nhà nước đối với
đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện cơ chế tự chủ tài chính qua Kho bạc
Nhà nước Phúc Thọ
Trên cơ sở mục tiêu Kiểm soát chi ngân sách nhà nước đối với đơn vị sự
nghiệp công lập thực hiện cơ chế tự chủ tài chính qua Kho bạc Nhà nước
Phúc Thọ và trước những thực trạng cơng tác KSC như đã phân tích ở chương
2, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm Kiểm soát chi ngân sách nhà nước
đối với đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện cơ chế tự chủ tài chính qua Kho
bạc Nhà nước Phúc Thọ như sau:
3.2.1 Xây dựng phần mềm tin học quản lý giao nhận hồ sơ kiểm soát
chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước Phúc Thọ
Trong chương 2 đã đánh giá, việc giao nhận hồ sơ KSC NSNN qua
KBNN Phúc Thọ được theo dõi bằng thủ cơng, theo quy trình KSC hiện hành
quy định mẫu “Phiếu giao nhận hồ sơ chi thường xuyên” (02/PHS - CTX) và
yêu cầu phải lập phiếu, ký nhận hồ sơ trong các trường hợp không thể giải
quyết trong ngày. Trong Quy trình KSC NSNN qua KBNN Phúc Thọ việc
theo dõi, kiểm tra kết quả xử lý hồ sơ đúng hạn hay không vẫn chưa thực hiện
được. Ngay cả khi cán bộ KSC nhận hồ sơ của khách hàng để xử lý sang ngày
sau đó nhưng khơng lập “Phiếu giao nhận hồ sơ chi thường xuyên” cũng khơng
có cơ chế để Lãnh đạo kiểm tra. Trong Quy trình “Một cửa” khơng có quy định
phải tự mở sổ theo dõi giao nhận hồ sơ và thời gian xử lý công việc để quản lý
và thống kê định kỳ. Nhưng nếu mở sổ theo dõi thì cũng mất rất nhiều thời gian,
nhất là các hồ sơ bị thiếu hoặc sai sót bị trả lại. Theo sự quan sát của tác giả thì
việc theo dõi thời gian kiểm sốt, thanh tốn các khoản chi thường xun tại
KBNN Phúc Thọ khơng được thực hiện, dẫn đến tình trạng thanh tốn các khoản
76
chi NSNN chậm, gây bức xúc cho khách hàng giao dịch.
Để giải quyết những hạn chế trên, KBNN Phúc Thọ cần xây dựng một
chương trình quản lý giao nhận hồ sơ “Một cửa” trên máy tính. Phần mềm
này phải đảm bảo theo dõi được các thông tin về khách hàng (mã đơn vị sử
dụng ngân sách, tên đơn vị, địa chỉ, số điện thoại), số bộ chứng từ, ngày giải
quyết, tên cán bộ tiếp nhận, lưu vết được các bước xử lý hồ sơ qua các bộ
phận để có thể xác định được trách nhiệm của từng bộ phận, cán bộ giải quyết
cơng việc, chương trình này cho phép kết xuất các báo cáo để quản lý việc
theo dõi trong quá trình giao nhận hồ sơ, chứng từ KSC, các hồ sơ, chứng từ
bổ sung, sai sót, thời gian kiểm sốt thanh tốn đúng hạn hay q hạn.
Chương trình quản lý giao nhận hồ sơ “Một cửa” này phải được cài đặt trên
máy tính đặt tại quầy giao dịch (máy ki ốt thông tin – tại KBNN Phúc Thọ,
khách hàng đăng nhập sử dụng máy này để tra cứu quy trình nghiệp vụ).
Khách hàng tự lập phiếu giao nhận hồ sơ trên máy vi tính, chỉ cần nhập mã
đơn vị sử dụng ngân sách, tồn bộ các thơng tin tương ứng như tên đơn vị, địa
chỉ, số điện thoại sẽ được hiện lên, tiếp theo nhập số bộ chứng từ. Sau khi
khách hàng nhập xong, cán bộ KSC kiểm tra hồ sơ chứng từ giấy, đối chiếu
với máy vi tính, có thể sửa chữa cho đúng nếu cần. Cán bộ KSC in “ Phiếu
giao nhận hồ sơ chi thường xuyên” trong chương trình, sau khi kiểm sốt,
thanh tốn hồ sơ chứng từ KSC trên, cán bộ KSC vào chương trình nhập
thơng tin đã kiểm sốt thanh tốn. Hàng ngày Kế tốn trưởng sẽ vào chương
trình in báo cáo kết quả KSC để theo dõi, kiểm tra các hồ sơ KSC chưa được
giải quyết, xử lý, những hồ sơ đã quá hạn xử lý, đồng thời nhắc nhở cán bộ
KSC thực hiện việc kiểm soát, thanh toán đúng quy định.
77
3.2.2 Tập trung kiểm soát các khoản chi ngân sách Nhà nước có mức
độ rủi ro cao
Với nguồn lực có hạn thì hệ thống KBNN nói chung và KBNN Phúc
Thọ nói riêng khơng thể kiểm sốt tồn bộ được các khoản chi thường xuyên
NSNN của tất cả các đơn vị sử dụng ngân sách mà cần phải kiểm sốt có
trọng điểm. Do đó, cần phải chuyển từ cơ chế KSC tồn bộ các khoản chi
NSNN sang kiểm soát theo mức độ rủi ro trong chi thường xuyên (rủi ro ở
đây là mức độ thất thốt, lãng phí NSNN). Việc kiểm sốt như trên sẽ tạo điều
kiện kiểm soát thanh toán nhanh các khoản chi NSNN, tránh phiền hà cho đơn
vị sử dụng ngân sách. Đồng thời, tránh sự kiểm soát trùng lắp của người
chuẩn chi (Thủ trưởng và Kế toán trưởng của đơn vị sử dụng ngân sách) và
cán bộ KSC KBNN.
Để thực hiện việc kiểm soát theo mức độ rủi ro, cần phân tích mức độ rủi
ro các khoản chi thường xuyên NSNN và xếp thứ tự từ cao xuống thấp và có
thể phân nhóm như sau:
- Rủi ro cao: các khoản chi có giá trị lớn như xây dựng, cải tạo trụ sở,
mua sắm hàng hóa, tài sản, sửa chữa lớn tài sản cố định.
- Ít rủi ro: Các khoản chi cơng tác chun mơn, văn phòng phẩm, điện
nước, tiền lương, phụ cấp...
Khi đã xác định mức độ rủi ro, cần có các cơ chế kiểm sốt cho phù hợp
với từng loại. Đối với các khoản chi NSNN rủi ro cao cần phải kiểm sốt tất
cả các khoản chi đó, đối với các khoản chi NSNN ít rủi ro thì cần kiểm soát
chọn mẫu hoặc thanh toán trước kiểm soát sau.
Việc đánh giá mức độ rủi ro của các khoản chi NSNN là cơng việc rất
phức tạp cần phải có một tiêu thức phân loại phù hợp cho từng ngành, từng
đơn vị sử dụng ngân sách. Việc thay đổi này cần phải có một cơ chế pháp lý
để thực hiện, trong đó phải xây dựng cơ chế kiểm sốt có sự phân công trách
nhiệm rõ ràng giữa KBNN và người chuẩn chi đối với từng khoản chi NSNN.
Nếu chuyển qua cơ chế kiếm soát này chắc chắn thời gian thanh toán các
78
khoản chi sẽ giảm xuống, đối với những khoản chi mà KBNN khơng kiểm
sốt thì tính hiệu quả và tính hợp pháp của khoản chi đó do Thủ trưởng đơn vị
sử dụng ngân sách chi chịu trách nhiệm.
3.2.3 Kiểm soát chi ngân sách nhà nước theo kết quả đầu ra nhằm
khắc phục những hạn chế của hình thức kiểm soát chi theo dự toán
Kiểm soát chi NSNN theo kết quả đầu ra là việc Nhà nước bỏ ra một
khoản tiền nhất định để mua của một Bộ, ngành hoặc một đơn vị nào đó cung
ứng cho xã hội về các dịch vụ công như các dịch vụ về cấp giấy phép, y tế,
giáo dục, cung cấp nước sạch... theo số lượng, chất lượng, thời gian và địa
điểm cung cấp.. đã được ấn định trước. Các Bộ trưởng và Thủ trưởng các đơn
vị chịu trách nhiệm trước Chính phủ và Quốc hội về việc sử dụng khoản ngân
sách đó theo kết quả cam kết ban đầu.
Đây là một phương thức cấp phát NSNN tiên tiến, mới được áp dụng ở
một số nước, hoặc một số khoản chi đặc biệt. Theo đó, Nhà nước khơng can
thiệp vào việc sử dụng các khoản kinh phí NSNN đã cấp cho các cơ quan đơn
vị, mà chỉ quan tâm đến hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó, tức là chỉ
quan tâm đến kết quả đầu ra của các chương trình, mục tiêu đã được cơ quan
có thẩm quyền phê duyệt.
Theo phương thức cấp phát này, ngay từ khi lập dự toán, các cơ quan, đơn
vị phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao; chỉ tiêu nhiệm vụ của năm kế
hoạch; chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu; dự toán và kết quả thực hiện nhiệm
vụ được giao của năm trước để xây dựng dự toán chi của năm kế hoạch.
Sau khi được các cấp có thẩm quyền giao dự toán ngân sách năm, các cơ
quan đơn vị dự toán cấp I tiến hành phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị
thực hiện phương thức cấp phát NSNN theo kết quả đầu ra.
Trên cơ sở dự toán chi cả năm được giao và nhiệm vụ phải chi trong quý,
các đơn vị phải lập nhu cầu chi quý gửi cơ quan quản lý cấp trên và KBNN
79
nơi mở tài khoản. Căn cứ nhu cầu chi hàng quý đã đăng ký và yêu cầu của
nhiệm vụ chi, đơn vị dự toán lập giấy rút dự toán ngân sách gửi KBNN nơi
giao dịch.
Căn cứ vào dự toán năm được giao và nhu cầu chi quý đã đăng ký,
KBNN thực hiện trích chuyển kinh phí theo đề nghị của đơn vị. Thủ trưởng
đơn vị được quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm về việc sử dụng kinh phí
được cấp, bảo đảm thực hiện công việc theo đúng những cam kết ban đầu.
Định kỳ, cơ quan tài chính phối hợp với cơ quan quản lý cấp trên của
đơn vị theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Trường hợp
phát hiện đơn vị không bảo đảm thực hiện công việc theo đúng cam kết,
KBNN được phép tạm dừng cấp kinh phí cho đơn vị hoặc có biện pháp thu
hồi phần kinh phí đã cấp. Như vậy, trong cơ chế kiểm soát chất lượng “đầu
ra”, các ràng buộc bằng chế độ , tiêu chuẩn, định mức chi tiêu ở “đầu vào” đã
được thay bởi các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả chất lượng “đầu ra”. Do đó,
nó đã khắc phục được những hạn chế của cơ chế KSC theo “đầu vào” hiện
nay, khi mà hệ thống chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu của Nhà nước còn
thiếu và lạc hậu; đồng thời tăng cường hơn nữa tính chủ động, sáng tạo của
các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN cấp cũng như phù hợp với chủ trương cải
cách thủ tục hành chính hiện nay ở nước ta.
Tuy nhiên, muốn có một cơ chế kiểm sốt như thế, trước hết Nhà nước
cần phải quy định các tiêu chuẩn hiệu quả đối với từng hình thức đơn vị sử
dụng NSNN. Lẽ đương nhiên, những khoản chi tiêu thường xuyên của NSNN
là những khoản chi gắn liền với việc thực hiện các chức năng của Nhà nước,
tức là gắn liền với việc đáp ứng các nhu cầu chung, nhu cầu có tính chất tồn
xã hội. Vì thế, hiệu quả của các khoản chi đó phải được xem xét dựa trên cơ
sở đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu kinh tế – xã hội nói chung. Đây
thực sự là một vấn đề khó khăn, phức tạp trong q trình triển khai áp dụng
80
cơ chế này. Hơn thế, hiệu quả của việc quản lý và KSC thường xuyên NSNN
không những chỉ đo được bằng các chỉ tiêu định lượng, mà còn phải xem xét
cả bằng các chỉ tiêu định tính.
Có thể thấy rằng quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra góp phần đổi mới
chính sách quản lý khu vực cơng. Tại Kho Bạc NN Phúc Thọ nói riêng và
KBNN nói chung, thực hiện cơ chế giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
cho các đơn vị sự nghiệp công lập thực chất là một bước khởi đầu chuyển đổi
cơ chế quản lý theo đầu vào dần sang cơ chế quản lý theo đầu ra với nguyên
tắc cơ bản là các đơn vị sự nghiệp cơng lập phải hòan thành tốt nhiệm vụ
được giao, thực hiện quyển tự chủ phải gắn với tự chịu trách nhiệm về quyết
định của mình.
Việc kiểm soát, đánh giá đầu ra và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao
của các cơ quan và đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm là
quan trọng hàng đầu. Có kiểm sốt, đánh giá được đầu ra và kết quả thực hiện
nhiệm vụ được giao thì mới có thể gắn quyền tự chủ với tự chịu trách nhiệm
của các đơn vị sự nghiệp công lập được giao tự chủ, tránh tình trạng quyền tự
chủ thì nhận thức và thực hiện rất nhanh nhưng về tự chịu trách nhiệm thì
khơng nhận thức và thực hiện một cách đúng đắn và đầy đủ.
Ngoài ra, một vấn đề nữa cũng cần phải tính đến là khi giao tồn bộ
trách nhiệm quản lý tài chính cho Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, rồi
sau đó mới xem xét hiệu quả của việc sử dụng số kinh phí đó, sẽ rất dễ phát
sinh trường hợp những nhà quản lý có thể lạm dụng số tiền tiết kiệm được
trong q trình sử dụng kinh phí được cấp để mưu lợi cho cá nhân hoặc chi
tiêu lãng phí, gây thất thốt tiền, tài sản của Nhà nước, trong lúc khơng bảo
đảm được số lượng, chất lượng công việc đã cam kết.
Hiện nay các cơ quan quản lý Nhà nước gặp nhiều khó khăn trong việc
xây dựng các tiêu chí và chuẩn mực để kiểm soát, đánh giá các hoạt động nói
81
chung và việc thực hiện nhiệm vụ được giao nói riêng đối với cơ quan, đơn vị
được giao thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Các cơ quan, đơn vị
cũng đang gặp khó khăn trong việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ của mình
nên cơng tác quản lý, kiểm soát, giám sát trong nội bộ từng cơ quan và đơn vị
cũng nảy sinh nhiều vấn đề bất cập.
Vì vậy trước mắt chỉ nên áp dụng phương thức cấp phát NSNN theo “kết
quả đầu ra” đối với một số khoản chi cho các dịch vụ công cộng như an ninh
trật tự, chống các tệ nạn xã hội, các chương trình giáo dục, y tế, vệ sinh mơi
trường …
Để tiến tới thực hiện quản lý theo kết quả đầu ra, chúng ta cần thực hiện
các giải pháp sau:
Thiết lập một bộ phận chức năng chuyên trách trong việc theo dõi, giám
sát, phân tích và đánh giá tình hình chi tiêu ngân sách, tình hình và kết quả
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Thực sự trao quyền và giao trách nhiệm về quản lý chi tiêu công cho đơn
vị sự nghiệp công lập để nâng cao tính linh hoạt, tích cực, hiệu quả cho các cơ
quan này. Đảm bảo minh bạch trong việc thực hiện chi tiêu công trong các
khâu: Lập ngân sách, phân bổ ngân sách và sử dụng ngân sách. Các đơn vị tự
chủ tài chính cần sẵn sàng chịu trách nhiệm mọi mặt về hoạt động của đơn vị
mình tương xứng với nguồn lực mà nhà nước giao.
Cơ quan kiểm toán, thanh tra cần tập trung vào loại hình kiểm tốn hoạt
động để kiểm tra, đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả quản lý và sử
dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá về đầu ra và kết quả bên cạnh việc
kiểm sốt đầu vào một số nhóm chi lớn của đơn vị. Kết quả của việc đánh giá
phải thành thông tin hữu ích trong phân bổ ngân sách.
Cần sử dụng “ phiếu đánh giá dịch vụ công” như một công cụ hữu hiệu
82
phản hồi ý kiến tập thể của những người sử dụng dịch vụ. Kết quả phiếu đánh
giá dịch vụ công khai được công bố công khai cho công chúng nhằm góp
phần nâng cao trách nhiệm trong cung cấp dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp
công lập.
Xây dựng lộ trình thích hợp tiến tới áp dụng khn khổ chi tiêu trung
hạn nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý tài chính, ngân sách theo đầu ra và kết
quả.Quản lý ngân sách nhà nước theo đầu ra và kết quả đạt được tính khả thi
khi phân bổ dự tốn ngân sách nhà nước được dựa trên cơ sở dự toán đầy đủ
các nguồn tài chính sẵn có được huy động vào thực hiện mục tiêu của các
chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của nhà nước thì tất yếu khó
có được sự lựa chọn tối ưu trong phân bổ dự tốn NSNN, đồng thời dẫn đến
tình trạng phân bổ dự toán NSN dàn trải, chồng chéo, manh mún, kém hiệu
quả tất yếu không thể khắc phục được.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống định mức phân bổ và định mức chi tiêu
NSNN phù hợp với yêu cầu áp dụng cơ chế quản lý NSNN đầu ra. Định mức
phân bổ dự tốn phải được tính tốn trên cơ sở dự tốn đầy đủ các nguồn tài
chính sẵn có trong ngắn hạn, trung và dài hạn, phù hợp với các đối tượng sử
dụng ngân sách. Định mức chi tiêu cần được xác định vào định mức kinh tế,
kỹ thuật của ngành, lĩnh vực, theo từng vùng và mang tính hướng dẫn để các
đơn vị sử dụng ngân sách dự toán chi phí cho các hoạt động dựa vào đầu ra.
Xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá để hệ thống theo dõi đánh giá thực sự
là một công cụ cung cấp thơng tin hữu hiệu cho q trình quản lý ngân sách.
3.3 Kiến nghị
3.3.1 Kiến nghị với Chính Phủ
Một là, Cần bổ sung, sửa đổi Luật NSNN nhằm đảm bảo tính khoa học,
tiên tiến, hiện đại, phù hợp với xu thế hội nhập và Thông lệ quốc tế, đặc biệt
đáp ứng được với yêu cầu thực tiễn và đổi mới của Việt nam. Sửa đổi NSNN
83
theo hướng:
- Về dự toán NSNN: Cần quy định quyền hạn, trách nhiệm của các cơ
quan, đơn vị khi tham gia quy trình nhập, phân bổ, duyệt dự toán trên hệ
thống Tabmis
- Bổ sung các quy định về thực hiện cam kết chi qua KBNN theo hướng
tất cả các khoản chi NSNN đều phải được cam kết chi qua KBNN trước khi
thực hiện thanh toán
- Luật NSNN cần thay đổi phương thức kiểm soát thanh tốn chi NSNN
như hiện nay mà hướng đến cơng tác KSC theo kết quả đầu ra.
- Cần quy định lại mức độ quyền hạn, trách nhiệm của KBNN trong
công tác KSC để phù hợp với việc KSC theo mức độ rủi ro của các khoản chi
nhằm nâng cao trách nhiệm của đơn vị sử dụng ngân sách và hiệu quả trong
công tác KSC của KBNN.
Hai là, Nhà nước cần ban hành cũng như sửa đổi bổ sung kịp thời các
tiêu chuẩn, định mức, chế độ chi tiêu làm căn cứ cho việc xác định mức
khoán chi của đơn vị; tăng cường công tác thẩm tra, thẩm định để xác định
mức độ tiết kiệm hay lãng phí của việc sử dụng kinh phí trong những năm
trước làm cơ sở cho việc xây dựng hệ số điều chỉnh (tăng, giảm) đối với kinh
phí khốn; quy định cụ thể và thống nhất hệ số điều chỉnh kinh phí khốn,
phù hợp với từng loại hình cơ quan, đơn vị và từng trường hợp cụ thể; thường
xuyên rà soát, phân loại, sắp xếp nhằm xác định số lao động cần thiết trong
từng khâu công việc cụ thể để xác định chính xác số biên chế khoán chi cho
từng cơ quan, đơn vị.
Phân định rõ vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị trong q
trình quản lý, kiểm tra, kiểm sốt đối với các đơn vị thực hiện khoán chi trong
các khâu: Đơn vị thực hiện khoán tự rà soát xác định lại nhu cầu lao động, bố
trí lực lượng lao động phù hợp, hiệu quả, chủ tài khoản phải chịu trách nhiệm
84
về các khoản chi tiêu của mình; cơ quan tài chính các cấp phối hợp với các
Bộ, ngành liên quan trên cơ sở các định mức, biên chế tối ưu để tính tốn, xác
định mức khốn phù hợp với từng loại hình đơn vị; KBNN thực hiện kiểm tra,
kiểm soát các khoản chi theo đề nghị của chủ tài khoản và các điều kiện chi
theo quy định.
3.3.2 Kiến nghị với Bộ Tài Chính
Một là, rà sốt, sửa đổi phương thức thanh tốn đối với một số khoản chi
chủ yếu phù hợp với thực tế trên lĩnh vực KSC thường xuyên trong điều kiện
áp dụng chương trình TABMIS cụ thể:
- Đối với khoản chi làm thêm giờ, theo quy định hiện hành khoản chi
này khơng q 200 giờ/năm, nhưng trên mẫu thanh tốn tiền ngồi giờ của
các đơn vị SNCL khơng thể hiện cột lũy kế giờ thanh toán trong năm nên Kho
bạc khơng thể kiểm sốt được số vượt so quy định. Để khắc phục tình trạng
trên cần ban hành mẫu thanh tốn có cột lũy kế giờ thanh tốn trong năm và
trên TABMIS nên ràng buộc điều kiện thanh toán với tinh thần vượt
200/giờ/người/năm chương trình sẽ cảnh báo.
- Đối với khoản chi mua sắm tài sản, công cụ, chi sửa chữa lớn tài sản cố
định, cần có quy định cụ thể từng loại tài sản sau thời gian bảo hành, dùng
bao nhiêu năm, bao nhiêu giờ thì mới được sửa chữa, trừ trường hợp bất khả
kháng như thiên tai gây hỏng hóc, đồng thời phải có cơ quan chun mơn
kiểm định tài sản cần sửa, khi đó mới được sửa chữa.
-Từng bước đưa dần các nhà cung cấp hàng hóa cho khu vực công (công
ty nhà nước, đơn vị hạch tốn hóa đơn đầu vào đầu ra) và hình thành khung
giá hàng hóa vào trong hệ thống quản lý TABMIS, có chế tài buộc nhà cung
cấp cam kết giá bán phù hợp theo cơ chế quản lý giá, từ đó đơn vị sử dụng
ngân sách quan hệ giao dịch trên cơ sở đấu thầu, chọn nhà thầu theo quy định,
có như thế sẽ hạn chế tối đa tình trạng mua hóa đơn như hiện nay và thống