Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.37 KB, 104 trang )
64
quyết tốn góp phần tăng cường tính chủ động và trách nhiệm của đơn vị
trong việc sử dụng kinh phí, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân
sách. Từ đó KBNN Phúc Thọ có căn cứ để quản lý và điều hành NSNN một
cách có hiệu quả.
Ba là,cùng với việc bảo đảm cho nguồn vốn của NSNN được sử dụng
đúng mục đích, thanh tốn đúng đối tượng, cơ chế KSC thường xuyên NSNN
qua hệ thống KBNN Phúc Thọ trong những năm vừa qua đã góp phần rất tích
cực vào việc giảm thiểu số lượng giao dịch tiền mặt bằng việc thanh tốn cho
nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và chi lương cho các đơn vị sử dụng ngân
sách thơng qua hình thức chuyển khoản.
Bên cạnh kết quả đạt được của KBNN Phúc Thọ trong việc kiểm soát chi
đối với các đơn vị SNCL thực hiện cơ chế tự chủ tài chính thì xét từ góc độ
các đơn vị SNCL thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đã
tăng cường tính chủ động trong việc thúc đẩy quá trình sắp xếp lại biên chế ,
tổ chức, phân công lao động hợp lý, tăng cường ý thức tiết kiệm của đơn vị
trong việc sử dụng kinh phí nâng cao hiệu quả, chất lượng trong cơng việc.
Mặt khác việc sử dụng kinh phí khốn sẽ phù hợp hơn với thực tế của
mỗi đơn vị và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí ngân sách cấp,
góp phần nâng cao thu nhập cho cán bộ công chức, viên chức; đồng thời, giải
quyết chế độ, trợ cấp thêm cho những lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp
lại lao động. Qua đó, tạo điều kiện cho từng cán bộ phát huy được tối đa
những phẩm chất, năng lực sở trường của mình.
2.3.2 Hạn chế
2.3.2.1 Việc tiếp nhận hồ sơ và xử lý hồ sơ chưa thực hiện theo đúng
Quy trình “Một cửa”
Việc tiếp nhận hồ sơ, chứng từ, cán bộ KSC KBNN Phúc Thọ đã bỏ qua
một số khâu trong quy trình nghiệp vụ kiểm soát chi ở bước tiếp nhận hồ sơ
65
và kiểm soát chi. Đó là, việc khơng lập Phiếu giao nhận hồ sơ mẫu số
02/PHS-CTX theo QĐ 1116/QĐ-KBNN ngày 24 tháng 11 năm 2009 tại Phụ
lục số 01.
Về thời gian kiểm soát, thanh toán các khoản chi cho đơn vị sử dụng
ngân sách chưa được đảm bảo theo đúng Quy trình nghiệp vụ quy định: Đối
với tạm ứng tiền mặt thời hạn giải quyết khơng q 60 phút, đối với thanh
tốn trực tiếp: trường hợp thanh toán chi thường xuyên đơn giản, nhận hồ sơ
trong buổi sáng, kiểm soát chi và thanh toán vào buổi chiều, trường hợp thanh
toán khoản chi thường xun mà hồ sơ có tính phức tạp, thanh tốn tạm ứng:
nhận hồ sơ hơm nay, thanh tốn vào hơm sau. Tuy nhiên, có rất nhiều trường
hợp cán bộ KSC KBNN Phúc Thọ kiểm soát thanh toán quá thời gian quy
định nhưng Ban lãnh đạo chưa có biện pháp kiểm soát và chấn chỉnh.
Mặt khác, việc tiếp nhận hồ sơ, chứng từ KSC NSNN tại KBNN Phúc
Thọ đang thực hiện thủ cơng, KBNN Phúc Thọ vẫn chưa có một chương trình
quản lý trên máy về Quy chế chi tiêu nội bô, Phiếu giao nhận hồ sơ, một số
tiêu chuẩn, định mức chi tiêu, kiểm soát việc chấp hành thời gian kiểm sốt,
thanh tốn. Những thơng tin trên chỉ được cán bộ KSC tự theo dõi thủ cơng
mà khơng có sự kiểm soát, chỉ đạo của Kế toán trưởng và Lãnh đạo KBNN do
vậy dẫn đến tình trạng cán bộ KSC khơng chấp hành tốt các quy định trong
Quy trình giao dịch “một cửa” trong việc giao nhận hồ sơ, thông báo từ chối
khách hàng và theo dõi thời gian kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN
nên đã xuất hiện một số hiện tượng cán bộ KSC nhũng nhiễu khách hàng, làm
mất uy tín của KBNN. Do vậy, KBNN Phúc Thọ cần xây dựng chương trình
phần mềm tin học theo dõi, giám sát việc tiếp nhận, xử lý hồ sơ KSC để Lãnh
đạo các tổ liên quan và Ban lãnh đạo KBNN Phúc Thọ theo dõi, giám sát
công việc kiểm soát chi ngân sách nhà nước được hiệu quả nhất.
2.3.2.2 Phương thức Kiểm soát chi mua sắm tài sản như hiện nay còn
66
bất cập dẫn đến thất thốt ngân sách nhà nước và sử dụng tài sản khơng có
hiệu quả
Như trong phần KSC đối với nhóm mục mua sắm tài sản, sửa chữa tài
sản có một thực tế là các đơn vị sử dụng ngân sách cùng mua sắm một loại tài
sản có cùng hãng sản xuất, cùng tiêu chuẩn kỹ thuật, cùng nước sản xuất
nhưng giá trị thanh toán trên các hồ sơ, tài liệu gửi KBNN Phúc Thọ khác
nhau. có sự chênh lệch giá trị đến 20%, mặc dù có đầy đủ các thủ tục hồ sơ
mua sắm. Việc mua sắm như trên đã làm thất thoát NSNN, dẫn đến tình trạng
tham nhũng trong việc mua sắm tài sản công. Mặt khác, việc mua sắm tài sản
hiện nay ở một số đơn vị sử dụng ngân sách có xu hướng mua những tài sản
kém chất lượng, xuất xứ hàng hóa khơng rõ ràng, nhưng giá mua vẫn tương
đương với các hàng hóa cùng loại có chất lượng cao, điều này cũng dẫn đến
tình trạng thất thốt, lãng phí NSNN, tình trạng tham nhũng trong mua sắm tài
sản và sử dụng tài sản khơng hiệu quả. Vì vậy, cần có phương thức kiểm sốt
mua sắm mới để khắc phục tình trạng trên
2.3.2.3 Do u cầu kiểm sốt tồn bộ các khoản chi của đơn vị sử dụng
ngân sách
Luật NSNN quy định tất cả các khoản chi NSNN đều phải được KBNN
kiểm tra, kiểm soát trước khi thanh toán, cấp phát. Để thực hiện quy định này,
KBNN Phúc Thọ thực hiện kiểm soát trên từng hồ sơ, tài liệu chứng từ của đơn
vị sử dụng ngân sách mỗi khi thanh toán qua KBNN, các hồ sơ, chứng từ phải
đảm bảo có dự tốn được duyệt, đúng tiêu chuẩn, chế độ, định mức. Tuy nhiên,
qua khảo sát tại KBNN Phúc Thọ nhận thấy để thực hiện KSC theo đúng các
điều kiện này thì người cán bộ KSC KBNN phải am tường tất cả các chế độ chi
tiêu của từng đơn vị, từng ngành, từng lĩnh vực một. Đồng thời phải nắm vững
các định mức chi tiêu trong quy chế chi tiêu của từng đơn vị. Tại KBNN Phúc
Thọ đến thời điểm năm 2014 có 78 đơn vị sự nghiệp cơng lập hoạt động các
67
lĩnh vực khác nhau sử dụng ngân sách thường xun mà chỉ có 4 cán bộ kiểm
sốt chi đối với các đơn vị này đồng thời phải đảm nhiệm thêm cơng tác hạch
tốn kế tốn các khoản chi NSNN. Đây là yêu cầu quá cao so với đội ngũ cán
bộ KSC của KBNN Phúc Thọ. Mặt khác, để kiểm soát các khoản chi đảm bảo
điều kiện đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi khơng có cách nào khác là cán
bộ KSC KBNN phải kiểm tra, kiểm soát thực tế chi tiêu của đơn vị sử dụng
ngân sách có đúng chế độ khơng? Trên thực tế việc kiểm sốt này chỉ đáp ứng
được một phần vì khối lượng công việc KSC rất lớn. Hơn nữa cũng cần xác
định rằng, việc thực hiện khoản chi có đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức hay
khơng thì Thủ trưởng và Kế toán trưởng đơn vị sử dụng ngân sách là người ra
quyết định chi và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Do đó, KBNN cần
xác định mức độ kiểm soát của từng nội dung chi cho phù hợp để tránh chồng
chéo trong việc kiểm soát các khoản chi NSNN.
2.3.2.4 Kho bạc Nhà nước Phúc Thọ chưa chủ động được nguồn vốn
thanh tốn cho các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ
Thông thường về cuối năm các đơn vị thường mang hồ sơ mua sắm, sửa
chữa lớn đến thanh toán hoặc thực hiện thanh toán tạm ứng cuối năm rất
nhiều trong khi đó Kho bạc Nhà nước Phúc Thọ chưa chủ động nguồn vốn vào
dịp cuối năm nguyên nhân do KBNN chưa thực hiện cam kết chi nên đầu năm
chưa có một khoản dự tốn dành sẵn thực hiện cho khoản chi đó nên cuối năm
có rất nhiều các khoản chi nên KBNN không chủ động được vốn nên ảnh hưởng
đến q trình thanh tốn cho các nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ.
Mặt khác, trong những năm gần đây, vẫn xẩy ra tình trạng một số đơn vị
sử dụng ngân sách vẫn có thể thực hiện ký kết hợp đồng với nhà cung cấp hàng
hóa, dịch vụ trong khi chưa có dự tốn, hợp đồng mua sắm hàng hóa, dịch vụ
không phù hợp với nhiệm vụ được giao của đơn vị sử dụng ngân sách, hoặc
không phù hợp với tiêu chuẩn, định mức, chế độ chi tiêu. Vì vậy, tại khâu thanh
68
toán, chi trả, đã bị KBNN từ chối thanh tốn và đơn vị sử dụng ngân sách
khơng có nguồn để thanh toán, chi trả cho đơn vị cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
Dẫn đến tình trạng nợ đọng trong thanh tốn vẫn còn diễn ra tại một số đơn vị
sử dụng ngân sách, ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế, gây thiệt hại cho các đơn vị
cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Đây là vấn đề tồn tại trong quản lý chi tiêu công,
chưa minh bạch trong quản lý và sử dụng NSNN. Do vậy, cần có một cơ chế
cam kết trả nợ của đơn vị sư dụng ngân sách, đây là một yêu cầu cấp thiết trong
định hướng về cải cách công tác KSC NSNN đến năm 2020.
2.3.2.5 Việc kiểm sốt chi theo hình thức dự tốn chưa gắn với hiệu quả
chi tiêu ngân sách nhà nước, chưa tạo được sự chủ động cho đơn vị sử dụng
ngân sách
Mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực đổi mới trong quản lý, kiểm sốt
chi tiêu cơng, nhưng với phương thức cấp phát theo dự toán (dự toán được
các đơn vị sử dụng ngân sách lập và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt)
và dựa trên các tiêu chuẩn, chế độ, định mức thì việc KSC của hệ thống
KBNN nói chung và KBNN Phúc Thọ nói riêng vẫn dựa theo phương thức
quản lý đầu vào, chưa chú trọng đến kết quả đầu ra. Việc KSC NSNN của
KBNN Phúc Thọ vẫn chú trọng đánh giá các nhân tố đầu vào được mua sắm
trong giới hạn ngân sách hơn là cải thiện kết quả thực hiện. Vì vây, cần đổi
mới phương thức quản lý, kiểm soát chi NSNN theo kết quả đầu ra, lấy kết
quả đầu ra làm thước đo hiệu quả của sử dụng NSNN.
2.3.3 Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong kiểm soát chi ngân
sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước Phúc Thọ
2.3.3.1 Nguyên nhân chủ quan
Một là, về chức năng, nhiệm vụ và năng lực kiểm soát chi NSNN qua
KBNN Phúc Thọ chưa đáp ứng được u cầu
Vai trò của KBNN nói chung đã được khẳng định là không thể thiếu và
rất quan trọng trong hệ thống kiểm soát ngân sách, tuy nhiên với quy định
69
hiện hành, KBNN Phúc Thọ chưa có chức năng kiểm sốt sau q trình thanh
tốn. Bên cạnh đó những khoản chi bằng Lệnh chi tiền do Phòng Tài Chính
chuyển sang, theo quy định của KBNN khơng có chức năng kiểm sốt. Chính vì
thế KBNN Phúc Thọ chưa thể kiểm sốt tồn bộ quy trình trước, trong và sau
thanh tốn, do vậy KBNN Phúc Thọ chưa thể kiểm soát được nhiều khoản chi của
các đơn vị SNCL thực hiện cơ chế tự chủ tài chính trên địa bàn Huyện.
Hai là, năng lực, trình độ cán bộ KBNN Phúc Thọ nói chung, cán bộ
trực tiếp làm cơng tác kiểm sốt chi NSNN nói riêng tuy đã được chú trọng
nâng cao chất lượng, song còn một số cán bộ đặc biệt là cán bộ trẻ vẫn bị giới
hạn về nghiệp vụ chuyên môn và kinh nghiệm thực tế chưa cao nên ảnh
hưởng khơng nhỏ đến chất lượng cơng tác kiểm sốt chi thường xun NSNN
nói chung và cơng tác KSC thường xun đối với đơn vị sự nghiệp công lập
thực hiện cơ chế tự chủ. Mặt khác thêm một khối lượng công việc lớn, với
tính chất ngày một phức tạp hơn cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng công tác kiểm soát chi của KBNN Phúc Thọ.
Ba là, cơ chế phối hợp trong kiểm soát chi NSNN chưa thống nhất, sự
phối hợp giữa Phòng Tài chính trên địa bàn HuyệnPhúc Thọ và KBNN Phúc Thọ
chưa thực sự đồng bộ và chưa thực sự có sự kết hợp chặt chẽ kịp thời để hỗ trợ
được cho nhau trong công tác quản lý chi NSNN trên địa bàn. Hiện nay cơ chế,
lập, giao dự toán và nhập dự toán các đơn vị sự nghiệp cơng lập thuộc trách nhiệm
cơ quan tài chính, tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau mà dự tốn được nhập vào
chương trình còn chậm trễ và còn sai sót so với quyết định dự tốn.
Phòng Tài Chính thường thực hiện ghi thu, ghi chi các khoản phí từ
nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập vào thời điểm cuối năm, thời
điểm mà cả Kho bạc và Tài chính đều rất bận rộn nên gây khó khăn trong
kiểm soát chặt chẽ các khoản chi cho KBNN Phúc Thọ và đối chiếu số liệu
giữa các đơn vị.
70
Bốn là, hệ thống công nghệ thông tin mặc dù đã được chú trọng đầu tư
nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu hiện tại. Năm 2012, Kho bạc
Nhà nước Phúc Thọ đã triển khai ứng dụng thành công dự án hệ thống thông
tin quản lý ngân sách và Kho bạc (Tabmis)- dự án được coi là có tính ưu việt
hơn hẳn so với chương trình cũ, có tính bảo mật cao. Tuy nhiên, đến thời
điểm hiện nay, chương trình TABMIS được đưa vào sử dụng chưa có nhiều
ứng dụng báo cáo khác nhau nên việc khai thác số liệu còn gặp nhiều khó
khăn, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu quản lý NSNN. Bên cạnh đó, hệ
thống mạng còn chậm, đơi lúc còn bị ngắt kết nối với máy chủ làm gián đoạn
công việc của cán bộ công chức.
2.3.3.2 Nguyên nhân khách quan
Một là, Hệ thống pháp luật hiện hành về NSNN chưa thực sự chặt chẽ và
đồng bộ, điển hình là cơ chế kiểm tra, KSC thường xuyên NSNN qua KBNN
còn chưa thật chặt chẽ, còn dàn trải về chế độ chính sách; hiệu lực của hệ
thống KSC NSNN còn hạn chế, mới chỉ giới hạn ở kiểm soát hồ sơ chứng từ,
khi hồ sơ chi khơng đúng thì u cầu đơn vị làm lại mà khơng có chế tài sử lý
đơn vị; việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa các cơ quan quản
lý chưa thực sự rõ ràng, còn trùng lặp và chồng chéo; nhiệm vụ kiểm tra, KSC
NSNN còn phân tán ở nhiều cơ quan như lệnh chi tiền quy định do cơ quan tài
chính kiểm sốt nhưng lại khơng có đủ quy định để cơ quan tài chính kiểm soát;
quy chế về đầu tư mua sắm, sửa chữa liên tục phải sửa đổi và bổ sung …
Các điều kiện để KBNN thực hiện kiểm tra, kiểm soát chi NSNN mặc dù
đã được nghiên cứu bổ sung và sửa đổi nhiều lần như chế độ cơng tác phí, chi
tiêu hội nghị, mua sắm tài sản...,song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý.
Hệ thống, định mức, tiêu chuẩn chi còn thiếu và một số khoản chi chưa hợp
lý. Chế độ tiêu chuẩn định mức hiện tại đã làm ảnh hưởng lớn đến công tác
lập phương án tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính, cơng tác quy chế chi
tiêu nội bộ của đơn vị SNCL thực hiện cơ chế tự chủ tài chính. Do vậy KSC
71
theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị chưa thực sự là căn cứ đáng tin cậy để
KBNN thực hiện việc kiểm tra, kiểm sốt làm ảnh hưởng khơng nhỏ đến hiệu
quả công tác KSC ngân sách của KBNN Phúc Thọ.
Hai là, chất lượng dự toán chưa cao, chưa đảm bảo, còn phải điều chỉnh
tăng, giảm nhiều lần. Mặc dù đã giao quyền tự chủ cho các đơn vị SNCL
nhưng các đơn vị vẫn khơng được phân bổ hết dự tốn ngay từ đầu năm, còn để
bổ sung về cuối năm nên chưa tạo được tính chủ động cho đơn vị.
Ba là, ý thức trách nhiệm của đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ tài chính
trong chấp hành chi ngân sách còn hạn chế như: Chi tiêu khơng đúng chế độ,
tiêu chuẩn định mức, xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ còn sơ sài hoặc khơng
đúng với tiêu chuẩn quy định. …đặc biệt là căn cứ pháp lý và trách nhiệm xử
lý các sai sót và vi phạm chưa rõ ràng, kết quả KSC nếu khơng đúng thì chủ
yếu là nhắc nhở, yêu cầu hoàn thiện hồ sơ chừng từ mà khơng có cơ chế xử lý
hoặc xử phạt cụ thể, nên hiệu quả KSC thường xuyên NSNN còn thấp.
Bốn là, cơ chế khốn kinh phí, khốn biên chế của chúng ta hiện nay còn
có loại khốn nhưng chưa giao khốn thực sự, giao khốn nhưng lại còn q
nhiều ràng buộc, nên hiệu quả của khốn kinh phí cho các đơn vị sử dụng
NSNN chỉ đạt được ở mức độ nhất định, các đơn vị SNCL chưa thực sự bung
hết khả năng của mình
Mặt khác, cơ chế giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị
SNCL thực chất là một bước khởi đầu chuyển đổi cơ chế quản lý theo “đầu
vào” dần sang cơ chế quản lý theo “đầu ra” với nguyên tắc cơ bản là thực hiện
quyền tự chủ phải gắn với tự chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Tuy nhiên hiện nay chưa có thước đo để đánh giá đơn vị đã thực hiện trách
nhiệm của mình đến đâu. Và kiểm sốt với kết quả đầu ra như thế nào?
Các cơ quan, đơn vị được giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cũng
đang gặp khó khăn trong việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ của mình, nên
cơng tác quản lý, kiểm soát, giám sát trong nội bộ từng cơ quan và đơn vị
cũng nảy sinh nhiều vấn đề bất cập.
72
Năm là, trình độ cán bộ của các đơn vị sử dụng NSNN còn yếu
Khả năng quản lý ở đơn vị sử dụng NSNN còn hạn chế, cán bộ nghiệp
vụ Tài chính của đơn vị thì khơng sâu về nghiệp vụ, khả năng nhận thức về
luật và các văn bản chế độ của Nhà nước rất kém, đặc biệt là cán bộ kế toán
tại các đơn vị SNCL thường xuyên thay đổi cho nên ảnh hưởng rất nhiều đến
công tác kế toán của đơn vị. Đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến KSC của
KBNN Phúc Thọ.
Sáu là, Quy trình một cửa trong kiểm sốt chi thường xun NSNN theo
Quyết định số 1116/QĐ-KBNN ngày 24/11/2009 có một số điểm chưa phù
hợp với thực tế đang diễn ra hiện nay. Quy định thời gian giải quyết cơng việc
còn chưa linh hoạt, chưa sát với thực tế đặt ra, quy định về thời gian có chỗ
còn chưa rõ ràng gây một số khó khăn nhất định đối với hoạt động kiểm sốt
chi của KBNN Phúc Thọ. Chưa có quy định cụ thể về hồ sơ lưu trữ tại KBNN
đối với từng khoản chi nên còn gây nhiều tranh cãi.
Bảy là, Bộ Tài chính và Kho bạc Nhà Nước chưa hướng dẫn kịp thời
chính sách giải ngân ở thời kỳ kiềm chế lạm phát, ví dụ như hướng dẫn Nghị
quyết 11 của Chính Phủ chưa kịp thời gây lúng túng cho các cán bộ thực hiện
cơng tác kiểm sốt chi của Kho bạc Nhà nước.
Kết Luận: Trên đây là những trình bày tổng quan về tổ chức bộ máy
hoạt động của KBNN Phúc Thọ; khái quát tình hình chi thường xuyên NSNN
và thực trạng cơng tác kiểm sốt chi NSNN đối với đơn vị sự nghiệp công lập
thực hiện cơ chế tự chủ tài chính qua Kho bạc nhà nước Phúc Thọ giai đoạn
2012-2014. Từ đó đánh giá tình hình kiểm sốt chi NSNN những kết quả đạt
được và hạn chế, nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong kiểm soát chi
NSNN qua KBNN Phúc Thọ. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp và kiến
nghị nhằm hồn thiện cơng tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN Phúc Thọ đối
với đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện cơ chế tự chủ tài chính.
73
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HỒN
THIỆNCƠNG TÁC KIỂM SỐT CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC PHÚC THỌ ĐỐI VỚI
ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP THỰC HIỆN CƠ CHẾ TỰ
CHỦ TÀI CHÍNH
3.1 Mục tiêu Kiểm sốt chi ngân sách nhà nước đối với đơn vị sự
nghiệp công lập thực hiện cơ chế tự chủ tài chính qua Kho bạc Nhà nước
Phúc Thọ
Kho bạc Nhà nước là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, việc xác định
mục tiêu và những nhiệm vụ chủ yếu của KBNN trong giai đoạn mới có ý
nghĩa rất quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế- xã hội, phát triển nền
tài chính cơng; góp phần tích cực vào thực hiện chiến lược phát triển KBNN
đến năm 2020 đã được chính phủ phê duyệt như sau: Xây dựng KBNN hiện
đại, hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển ổn định vững chắc trên cơ sở cải
cách thể chế, chính sách, hồn thiện tổ chức bộ máy, gắn với hiện đại hố
cơng nghệ và phát triển nguồn nhân lực để thực hiện tốt chức năng: quản lý
NSNN và các quỹ tài chính nhà nước; quản lý ngân quỹ và quản lý nợ Chính
phủ; tổng kế tốn nhà nước nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả và tính cơng
khai; minh bạch trong quản lý các nguồn lực tài chính của nhà nước. Đến năm
2020 các hoạt động KBNN được thực hiện trên nền tảng công nghệ thông tin
hiện đại và hình thành Kho bạc điện tử.
Mục tiêu hồn thiện cơng tác kiểm sốt chi NSNN qua KBNN Phúc Thọ
đối với đơn vị sự nghiệp công lập cũng nằm trong mục tiêu chiến lược phát
triển chung của Kho bạc Nhà nước. Đó là đổi mới cơng tác quản lý, kiểm soát
74
chi dựa trên sự chỉ đạo của KBNN cấp trên tiến tới kiểm soát chi theo kết quả
đầu ra, theo nhiệm vụ và chương trình ngân sách, thực hiện phân loại các
khoản chi ngân sách nhà nước theo nội dung và giá trị đến xây dựng quy trình
kiểm soát chi hiệu quả trên nguyên tắc quản lý theo rủi ro, phân định rõ trách
nhiệm, quyền hạn của cơ quan Tài chính, cơ quan chủ quản, Kho bạc Nhà nước
và các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước, có chế tài xử phạt hành chính theo
thơng tư 54/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện việc xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực kho bạc nhà nước theo quy định tại Nghị
định số 192/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ ngày
đối với cá nhân, tổ chức sai phạm hành chính về sử dụng ngân sách nhà nước.
Tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong cơng tác kiểm sốt chi,
bảo đảm đơn giản, rõ ràng minh bạch về hồ sơ, chứng từ, nội dung kiểm sốt,
tiến tới thực hiện quy trình kiểm sốt chi điện tử. Áp dụng các phương tiện
thơng tin hiện đại, các điều kiện sẵn có về hạ tầng truyền thông và công nghệ
thông tin để thực hiện công khai hóa thủ tục KSC NSNN qua KBNN. Kết quả
của cải cách thủ tục hành chính phải được hướng đến đối tượng là đơn vị sử
dụng ngân sách và các nhà cung cấp cho lĩnh vưc công, một mặt đảm bảo yêu
cầu công khai, minh bạch thông tin, mặt khác đảm bảo vai trò trung gian của
KBNN bảo đảm thanh tốn cho các nhà cung cấp dịch vụ.
Quy trình thủ tục KSC NSNN đảm bảo tính khoa học, đơn giản, rõ ràng
công khai và minh bạch, thuận lợi cho người kiểm soát, người được kiểm soát
và người thụ hưởng, đồng thời, phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu quản lý.
Kiện toàn tổ chức bộ máy KBNN Phúc Thọ hiện đại, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả và chuyên nghiệp. Quản lý cán bộ theo khối lượng và công việc
được giao, quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm hành chính và trách nhiệm vật
chất của cán bộ trên từng vị trí cơng tác, chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ
có năng lực và trình độ chun mơn cao, sắp xếp và hợp lý hóa nguồn nhân