Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 222 trang )
Đối với lứa tuổi từ 16 đến 18 tuổi, nếu hành vi phạm
pháp có tính chất tương đối nghiêm trọng, nói chung cần xét
xử, nhưng so với người lớn cần xử nhẹ hơn [66, tr. 14].
Như vậy, qua hướng dẫn trên đã xác định tuổi chịu trách nhiệm
hình sự là 14 tuổi. Dưới độ tuổi này, người chưa thành niên dù thực hiện
hành vi nguy hiểm đến mấy cũng khơng bị coi là người phạm tội.
Điểm tiến bộ trong luật hình sự thời kỳ này là đã xác định độ tuổi
14 là độ tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự, nhưng khơng phải mọi
trường hợp người từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện hành vi bị coi là tội phạm
đều bị đưa ra xét xử mà "đối với lứa tuổi từ 14 đến 16 thì chỉ bị truy tố,
xét xử trong những trường hợp phạm các tội nghiêm trọng" [66, tr. 19]. Khi
hướng dẫn đường lối xét xử đối với một số tội phạm cụ thể Tòa án
nhân dân tối cao đã khẳng định đối với những người từ 14 tuổi tròn trở
lên đến 16 tuổi, chỉ nên truy tố trong những trường hợp phạm tội nghiêm
trọng như giết người, cướp của, hiếp dâm, riêng về hiếp dâm vẫn chủ
yếu là giáo dục và cũng chỉ truy tố trong những trường hợp phạm tội
nghiêm trọng. Còn đối với lứa tuổi từ 16 đến 18 tuổi chỉ được xử lý hình
sự nếu hành vi phạm pháp có tính chất tương đối nghiêm trọng.
Như vậy, trong thời kỳ này pháp luật đã có sự phân hóa từng giai
đoạn độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên gắn
với mức độ nghiêm trọng của từng loại tội phạm.
Thứ hai, nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội được
quy định trong thời kỳ này là trách nhiệm hình sự có tính chất giảm nhẹ và
có mục đích giáo dục là chính.
Tại Báo cáo công tác 4 năm (1965 1968) của Tòa án nhân dân
tối cao đã hướng dẫn xét xử đối với người chưa thành niên nên xử nhẹ hơn
so với người lớn, hay như tại Chuyên đề sơ kết kinh nghiệm về việc xét
xử các vụ án người chưa thành niên phạm tội (gửi kèm theo Cơng văn số
37NCPL ngày
16/01/1976 của Tòa án nhân dân tối cao), Tòa án nhân dân tối cao
nhấn mạnh: "Phải coi việc phạm tội chưa đến tuổi trưởng thành là một
trường hợp được giảm nhẹ tội, nghĩa là phải xử phạt nhẹ người chưa
thành niên hơn người lớn tuổi phạm tội trong điều kiện tương tự. Đó là
nguyên tắc cần được quán triệt" [66, tr. 36].
Cũng như trong Hướng dẫn số 329HS2 ngày 11/2/1967 của Tòa
án nhân dân tối cao:
Khi xét xử cần chiếu cố thích đáng đến trình độ hiểu
biết pháp luật non kém và khả năng dễ tiếp thu cải tạo giáo dục
của họ, đến việc họ chưa nhận thức được đầy đủ tính chất
nguy hiểm của hành vi của mình mà xử nhẹ hơn các can phạm
đã lớn tuổi… chỉ vào khoảng 1/2 mức án đối với can phạm lớn
tuổi [66, tr. 28].
Tính chất giảm nhẹ và mục đích giáo dục là chính của các nguyên
tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội được thể hiện trong các quy định
của thời kỳ này là xuất phát từ chính sách nhân đạo và quan điểm chỉ
đạo của Đảng lấy giáo dục phòng ngừa là chính đối với người chưa thành
niên phạm tội.
Tính chất giảm nhẹ và mục đích giáo dục phòng ngừa là chính
của nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội còn được thể
hiện cụ thể trong việc hướng dẫn áp dụng hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân tối cao, đối với một số tội cụ thể.
Ví dụ: Bản tổng kết số 452 HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án
nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử loại tội giết người đã đề cập đến:
Vì tội giết người là một tội hết sức nguy hiểm mà lứa
tuổi từ 14 tuổi tròn trở lên đã có thể nhận thức được ít nhiều tính
chất, cho nên, nói chung, cần truy tố xử các trường hợp giết
người mà can phạm có từ 14 tuổi tròn trở lên. Tuy nhiên, vì nhận
thức của các phạm còn non nớt, cho nên cần xét xử nhẹ hơn
so với người đã
lớn… Mức hình phạt đối với các can phạm này nói chung chỉ
nên từ khoảng 15 năm tù trở xuống. Đối với các can phạm đã có
từ 16 tuổi tròn trở lên cho đến dưới 18 tuổi một ít cũng có thể xử
nhẹ một phần so với can phạm đã lớn và đối với tất cả các
loại can phạm này, nói chung, khơng nên áp dụng hình phạt tử
hình [66, tr. 19]
Hơn nữa, trong khi hướng dẫn xét xử đối với loại tội hiếp dâm
do người chưa thành niên phạm tội thực hiện, Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ
rõ cơ sở của việc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành
niên là sự hạn chế trong nhận thức tính chất nguy hiểm cho xã hội của
loại tội này, cũng như mục đích giáo dục là chính của việc xử lý người
chưa thành niên phạm tội.
Nhìn chung đối với loại tội này, cơ quan xét xử phải chú
ý hơn nữa đến những suy nghĩ nhận thức của người chưa thành
niên phạm tội, họ có những nhận thức khác so với một số loại
tội phạm thông thường như trộm cắp, giết người…, ở loại
tội này, bị cáo thường ít hiểu rằng hành vi đó là nguy hiểm là
có tội. Còn đối với tội hiếp dâm, người chưa thành niên hành
động theo bản năng tình dục của mình, họ khơng nghĩ rằng đó là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, là phạm tội và sẽ bị xử nặng.
Do vậy, nếu can phạm từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, chủ
yếu nên dùng các biện pháp giáo dục như giao cho cha, anh,
chú, bác bảo lĩnh và giáo dục.
Nếu can phạm từ đủ 16 đến 18 tuổi, trừ một số ít các
trường hợp có tình tiết ít nghiêm trọng thì xử như hướng dẫn trên,
nhìn chung cần xét xử về hình sự. Khi xét xử cần chiếu cố thích
đáng đến trình độ hiểu biết pháp luật non kém và khả năng dễ
tiếp thu cải tạo giáo dục của họ, đến việc họ chưa nhận thức
đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi của mình mà xử nhẹ
hơn các can phạm đã lớn tuổi…
chỉ vào khoảng 1/2 mức án đối với can phạm lớn tuổi [66, tr.
42 43].
Như vậy, điểm tiến bộ vượt bậc của luật hình sự thời kỳ này là
việc áp dụng ngun tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội có tính chất
giảm nhẹ dựa trên sự đánh giá về mức độ nhận thức của bản thân người
chưa thành niên về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực
hiện. Đối với hành vi hiếp dâm, chủ thể đang ở độ tuổi vừa lớn dậy, họ
khơng thể thấy hết mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì khơng
nhất thiết phải áp dụng hình phạt mà có thể áp dụng những biện pháp có
tính chất giáo dục.
Thứ ba, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội phải căn cứ
vào trình độ nhận thức, hồn cảnh phạm tội và nhân thân của các em. Trên
cơ sở cân nhắc sự phát triển về thể chất, khả năng nhận thức và các yếu
tố tâm sinh lý Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn:
Việc xử phạt nhiều, ít là tùy thuộc ở trình độ nhận thức
và trạng thái tâm sinh lý của người chưa thành niên đến mức
độ nào được thể hiện nói chung qua lứa tuổi cao thấp khác
nhau, ở hồn cảnh phạm pháp, ở tính chất nguy hiểm nhiều
hay ít của hành vi phạm tội và của nhân thân người phạm tội
cũng như u cầu của tình hình chung [66, tr. 36].
Như vậy, mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng luật hình sự nói riêng
cũng như pháp luật nói chung của thời kỳ này đã quy định một cách khá cụ
thể những ngun tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội như vấn đề
độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, mục đích xử lý người chưa thành niên
phạm tội (chủ yếu mang tính giáo dục, phòng ngừa), các ngun tắc xử lý
và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội.
Những quy định này là tiền đề cho việc xây dựng ngun tắc xử lý
người chưa thành niên phạm tội thống nhất, cụ thể cho hai lần pháp điển
hóa Bộ luật hình sự.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời trong hồn cảnh đất nước đã
thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình
đó, đòi hỏi chúng ta phải có một Bộ luật hình sự hồn chỉnh để đáp ứng
được u cầu của nhiệm vụ cách mạng mới: "Đó là xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" (Lời nói
đầu, Bộ luật hình sự năm 1985). Thực tiễn của cơng tác xây dựng và áp
dụng pháp luật hình sự nói chung, cũng như quy định về các nguyên tắc
xử lý người chưa thành niên phạm tội nói riêng, từ khi Cách mạng tháng
Tám thành cơng cho đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, cho
thấy: Các văn bản pháp luật hình sự do chính quyền cách mạng ban hành
trước đó thường chỉ là những văn bản riêng lẻ, quy định một nhóm tội
hoặc trong một lĩnh vực cụ thể nào đó.
Ngày 27/6/1985, Bộ luật hình sự năm 1985 đã được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa
VI chính thức thơng qua. Với bản chất tốt đẹp của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, Đảng và Nhà nước đã giành một sự quan tâm thích đáng cho cơng
tác chăm sóc thiếu niên nhi đồng, đặc biệt là lứa tuổi thanh niên. Trên tinh
thần đó, Bộ luật hình sự năm 1985 đã giành hẳn một chương quy định
về người chưa thành niên phạm tội trong đó có các nguyên tắc xử lý
người chưa thành niên phạm tội. Nghiên cứu các quy định của Bộ luật
hình sự năm 1985 về các ngun tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
có thể rút ra một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự ở nước ta,
các quy định về xử lý người chưa thành niên phạm tội được quy định
thành một chương hồn chỉnh (chương VII), trong đó đã quy định khá đầy
đủ các vấn đề liên quan đến các ngun tắc xử lý người chưa thành niên
phạm tội. Đây được coi là một chương đặc thù vì đối tượng được áp dụng
các quy định của chương này là người chưa thành niên phạm tội. Hơn nữa,
Bộ luật hình sự năm 1985 còn thể hiện thống nhất một nguyên tắc
chung là: Người chưa thành