Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.68 KB, 27 trang )
Hình 0.1. Các giai đoạn khảo sát đột biến gen trong nghiên cứu
- Giai đoạn 1: Khảo sát đột biến gen mang tính hội chứng.
3 bệnh nhân có màu mắt bất thường gợi ý hội chứng Waardenburg được
khảo sát đột biến gen PAX3 và ghi nhận 2 trường hợp có đột biến
c.667C>T và 1 trường hợp có đột biến mới c.955delC có khả năng gây
bệnh khi được dự đốn bằng mềm chuyên dụng.
Hình 0.2. Bệnh nhân Phùng Minh H
(2005), khiếm thính sâu.
Hình 0.3. Bệnh nhân Lương
Ngọc Thuỳ A (2012) và anh trai
Lương Ngọc B (2010); khiếm
thính nặng
- Giai đoạn 2: Khảo sát đột biến gen GJB2.
46 bệnh nhân có đột biến gen GJB2, chiếm tỷ lệ 50,55%; với tổng số 58
đột biến gồm 8 loại cố tần suất xuất hiện tăng dần theo thứ tự c.299-
11
300delAT, c634.T>A, c235delC, c.11A>G, c.608T>C, c.341A>G,
c.79G>A và c.109G>A.
- Giai đoạn 3: Khảo sát đột biến gen với “U TOPTM HL Genotyping
kit”.
Ghi nhận được 3 trường hợp có đột biến gen gồm 2 trường hợp có
đột biến gen SLC26A4 (c.2168A>G, c.919_2A>G) và 1 trường hợp
có đột biến gen trên ty thể 12S_rRNA 1555A>G.
- Giai đoạn 4: Khảo sát đột biến gen với “Deafness genes panel”.
Ghi nhận 23 trường hợp có đột biến xảy ra trên 19 gen khác nhau.
Trong đó 14 trường hợp có 1 đột biến gen, 7 trường hợp có 2 đột biến
gen và 2 trường hợp có 3 đột biến.
- Kết thúc 4 giai đoạn: Chúng tôi ghi nhận được 75 trường hợp có đột
biến gen với tổng cộng 100 đột biến trên 23 gen khác nhau: GJB2
(61,33%), MY015A (6,65%), MYO7A (3,99%), SLC26A4 (2,66%),
POU3F4 (1,33%), 12S rRNA 1555A>G (1,33%) và đột biến của 17
gen còn lại chiếm tỷ lệ 22,71%.
PHÂN BỐ GEN TRÊN 75 BỆNH NHÂN CÓ ĐỘT BIẾN
22.71%
61.33%
1.33%
1.33%
2.66%
3.99%
6.65%
GJB2
MYO15A
MYO7A
SLC26A4
POU3F4
12S-rRNA
KHÁC
Biểu đồ 0.1. Phân bố gen trên 75 bệnh nhân có đột biến
12
3.3. TƯƠNG QUAN VỀ LÂM SÀNG VÀ THÍNH HỌC GIỮA TRẺ
CĨ ĐỘT BIẾN GEN VÀ TRẺ CHƯA XÁC ĐỊNH ĐƯỢC CÓ ĐỘT
BIẾN GEN
3.3.1.Tương quan giữa đột biến gen và tình trạng khiếm thính
+ Mức độ khiếm thính: Trong 75 trường hợp có đột biến gen, chúng
tơi ghi nhận 10,66% trung bình, 20% nặng và 69,34% sâu.
+ Thời điểm khiếm thính: 88% trước ngơn ngữ, 12% tiến triển; Đột
biến gen ở các trường hợp khiếm thính tiến triển: 6 trường hợp có đột
biến gen GJB2, 1 trường hợp có đột biến gen MYH14, 1 trường hợp
có đột biến gen MYO15A và 1 trường hợp có đột biến SLC26A4.
3.3.2. Tương quan về lâm sàng và thính học giữa trẻ có đột biến gen
và trẻ chưa xác định được có đột biến gen
3.3.2.1.Tương quan về lâm sàng: Thời điểm phát hiện khiếm thính: trung
bình 30,48 tháng ở trẻ có đột biến và trung bình 18,19 tháng ở trẻ khơng
có đột biến, P=0,023; Lý do phát hiện khiếm thính: P=0,092; Dị tật và
bệnh lý kèm theo: P=0,352; Tiền căn gia đình có người khiếm thính:
P=0,43.
3.3.2.2.Tương quan về thính học: Mức độ khiếm thính: Tai phải: P=
0,144; Tai trái: P=0,725; Thời điểm khiếm thính: trẻ có đột biến (88%
trước ngơn ngữ, 12% tiến triển), trẻ khơng có đột biến (100% trước ngôn
ngữ), P= 0,144.
Chương 4. BÀN LUẬN
4.1. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ THÍNH HỌC
4.1.1. Đặc điểm lâm sàng
Thời điểm phát hiện khiếm thính: trung bình là 28,32 tháng. Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của Nelson, Moeller MP, Pip-Siegel S,
Yoshinago Itano C và Kennedy CR. Theo các tác giả này, nếu khơng được
phát hiện qua chương trình tầm sốt khiếm thính ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ,
phần lớn trẻ được phát hiện rất muộn khi đã ảnh hưởng nhiều đến sự phát
triển ngôn ngữ và chất lượng cuộc sống; Lý do phát hiện khiếm thính: Lý
do người nhà đưa trẻ đến khám bệnh chủ yếu là chậm nói (63,7%), tiếp
theo là khơng phản ứng âm thanh (18,7%), các lý do khác như nói ngọng,
13
học kém hiện diện với tỷ lệ rất thấp và đặc biệt không có trường hợp nào
được đưa đến khám bệnh do nhân viên y tế khuyến cáo. Ghi nhận của
chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu của Nguyễn Thị Cơi, Nguyễn Tuyết
Xương và H.Nelson. Theo những tác giả này hầu hết trẻ đều khơng được
cha mẹ phát hiện khiếm thính ở giai đoạn sớm. Nghiên cứu của chúng tôi
và các tác giả trên cho thấy nhu cầu cấp thiết của việc đẩy mạnh các
chương trình giáo dục sức khoẻ cộng đồng, sự phối hợp tầm sốt khiếm
thính cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ giữa các ngành Sản, Nhi,Tai Mũi Họng;
Dị tật và bệnh lý kèm theo: Nghiên cứu của chúng tơi chỉ có 5,6% có dị
tật kèm theo (3 bệnh nhân có màu mắt xanh bất thường và 2 bệnh nhân
có lỗ tiểu thấp), 94,4% khơng ghi nhận được bất thường; Tiền căn gia
đình có người khiếm thính bẩm sinh: Chúng tơi ghi nhận 11 trường hợp
(12,1%) trong gia đình có người bị khiếm thính bẩm sinh. Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của D. Mehtah, Alford RL và T.Yashima. Theo
các tác giả trên, tiền căn gia đình có người khiếm thính bẩm sinh được
ghi nhận ở khoảng 10% trẻ khiếm thính. Điều này phù hợp với quan điểm
của Declaude: “Nếu chỉ tầm sốt trên những đối tượng có nguy cơ cao
theo khuyến cáo của JCIH 2007 thì sẽ bỏ sót rất nhiều trường hợp khiếm
thính”.
4.1.2.Đặc điểm thính học
+ Mức độ khiếm thính: 100% trường hợp trong nghiên cứu có tình
trạng khiếm thính cả 2 tai, hơn 90% khiếm thính nặng hoặc sâu. Kết
quả này phù hợp với các nghiên cứu của Nguyễn Thu Thuỷ, Nguyễn
Tuyết Xương, C.Sloan, Heggen, D.Mehta. Chúng tôi và những tác
giả trên đã ghi nhận khiếm thính bẩm sinh thường xảy ra ở cả hai bên
tai, chủ yếu ở mức độ nặng hoặc sâu, gây nhiều khó khăn cho việc
học tập, sinh hoạt của trẻ. Để giúp những trẻ này phát triển ngơn ngữ
và hồ nhập với cộng đồng tốt hơn, chúng ta cần đẩy mạnh chương
trình tầm sốt và can thiệp khiếm thính sớm phù hợp với điều kiện
kinh tế, y tế của Việt Nam.
+ Thời điểm khiếm thính: Trong nghiên cứu này, phần lớn các trường
hợp khiếm thính đều xảy ra ở giai đoạn trước ngơn ngữ (90,1%), chỉ
có 9,9% khiếm thính tiến triển. Ghi nhận này phù hợp với ghi nhận
14
Barreira và Kover. Theo hai tác giả này, tầm sốt khiếm thính ở giai
đoạn sơ sinh và trẻ nhỏ có khả năng bỏ sót những trường hợp khiếm
thính tiến triển do đột biến gen gây ra vì thính lực của bệnh nhân có
thể “bình thường” khi được khảo sát nhưng sau đó sẽ giảm dần và
tiến triển đến nặng hoặc sâu trước tuổi dậy thì. Việc đưa quy trình
khảo sát đột biến gen vào chương trình tầm sốt khiếm thính cho phép
dự đốn tình trạng thính lực của trẻ nhằm chủ động trong q trình
theo dõi và điều trị thích hợp.
4.2. ĐẶC ĐIỂM ĐỘT BIẾN GEN
Sau 4 giai đoạn khảo sát đột biến gen chúng tơi ghi nhận được 75
trường hợp có đột biến gen, chiếm tỷ lệ 82,42%. Kết quả này tương tự
với 2 nghiên cứu của Choi và Siqi Chen thực hiện tại Hàn Quốc và Trung
Quốc nhưng lại khác với các nghiên cứu được tiến hành tại Mỹ và Nhật
của D.Mehta và Naoko Sakuma. Sự khác biệt kết quả giữa các nghiên cứu
có thể do số lượng gen khảo sát, cỡ mẫu và đặc điểm địa lý, dân tộc.
Trong nghiên cứu của chúng tơi có 16 trường hợp (17,58%) chưa phát
hiện đột biến gen. Theo báo cáo của Barbara Vona (2015), có thể khẳng
định ngun nhân gây khiếm thính là do di truyền khi xác định được đột
biến gây bệnh trên bệnh nhân. Tuy nhiên do giới hạn về số lượng gen
khảo sát nên hồn tồn khơng thể loại trừ nguyên nhân di truyền khi
không phát hiện được đột biến vì bệnh nhân có thể bị đột biến gen gây
khiếm thính khác ngồi danh mục nhóm gen đã được khảo sát.
Hình 0.4. Đặc điểm đột biến gen được phát hiện trong nghiên cứu
15
Trong 75 trường hợp có đột biến gen, khi tra cứu dữ liệu ngân
hàng gen NCBI, chúng tơi đã ghi nhận có 61 trường hợp mang gen gây
khiếm thính đơn thuần (81,33%) và 14 trường hợp mang gen gây khiếm
thính mang tính hội chứng (18,67%). Tuy nhiên ngồi 3 bệnh nhân
(3,99%) có màu mắt xanh bất thường (hội chứng Waardenburg), tất cả
những trường hợp có đột biến gen gây khiếm thính mang tính hội chứng
còn lại đều không ghi nhận được bất thường khác trên lâm sàng. Kết quả
của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu khác của Miyagawa, C.Wu và
D.Mehta. Theo các tác giả này, tình trạng khiếm thính thường xuất hiện
sớm hơn các biểu hiện khác do vậy trên lâm sàng rất khó phát hiện những
bệnh lý tiềm ẩn liên quan đến hội chứng nếu không thực hiện xét nghiệm
gen. Xét nghiệm gen không đơn thuần chỉ xác định nguyên nhân, có ý
nghĩa trong việc lựa chọn phương pháp điều trị khiếm thính mà còn phát
hiện, can thiệp sớm bất thường ở hệ cơ quan khác do đột biến gen gây ra.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đột biến gen GJB2 được phát
hiện nhiều nhất chiếm tỷ lệ 61,33%, kế tiếp là đột biến gen MY015A
(6,65%), MYO7A (3,99%), SLC26A4 (2,66%), đột biến di truyền trên
nhiễm sắc thể giới tính (POU3F4) chiếm 1,33%, đột biến di truyền trên
ty thể (12S rRNA 1555A>G) chiếm 1,33% và đột biến của 17 gen còn lại
chiếm tỷ lệ 22,71%. Kết quả của chúng tơi có nhiều điểm tương đồng
với các nghiên cứu được thực hiện tại Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản
của C.Wu, Feng Xin, Moteki nhưng lại khác với nghiên cứu Choi,
C.Sloan thực hiện tại Hàn Quốc và Mỹ. Sự khác biệt về các gen đột biến
gây khiếm thính thường gặp giữa các nước là lý do khiến ACMG và các
chuyên gia về di truyền, thính học cho rằng mỗi quốc gia cần thực hiện
nghiên cứu khảo sát đột biến gen gây khiếm thính ở nhiều dân tộc và khu
vực khác nhau để xác định nhóm đột biến gen gây khiếm thính thường
gặp nhằm xây dựng quy trình khảo sát đột biến gen phù hợp với điều kiện
kinh tế và đặc điểm di truyền của cộng đồng, dân cư đang sinh sống tại
quốc gia đó.
16
Bảng 4.2. Các gen gây khiếm thính thường gặp ở một số quốc gia
GEN ĐỘT BIẾN
QUỐC GIA
TÁC GIẢ
THƯỜNG GẶP
Đài Loan
Iran
Nhật Bản
Trung Quốc
Hàn Quốc
Mỹ
Việt Nam
GJB2, SLC26A4
Wu (2008, 2011)
GJB2, SLC26A4, TECTA,
PJVK
GJB2, SLC26A4, 12S rRNA
1555A>G, MYO15, CDH23
GJB2, SLC26A4, 12S_rRNA
1555A>G
SLC26A4, GJB2,
CDH7,CDH23
GJB2, STRC, SLC26A4,
TECTA
GJB2, MYO15A, MYO7A,
SLC26A4
Nerah Mahdie
(2010)
Moteki (2016)
Feng Xin (2013)
Yi Jiang (2015)
Choi (2014)
Jinsei Jung (2017)
C.Sloan (2016)
Chúng tôi (2017)
Với kết quả nghiên cứu này, để giảm chi phí và thời gian dành
cho việc xét nghiệm gen, chúng tôi xin đề xuất xây dựng quy trình khảo
sát đột biến gen gây khiếm thính theo từng giai đoạn:
1. Bên cạnh việc đánh giá tình trạng khiếm thính, cần thăm khám tồn
diện để tìm những những triệu chứng bất thường có thể gợi ý đến các
hội chứng thường gặp như Waardenburg, Pendred, Usher… để khảo
sát đột biến gen liên quan đến hội chứng đó. Nếu tìm được đột biến
gen có ý nghĩa gây bệnh thì sẽ xác định chẩn đốn. Trong trường hợp
khơng phát hiện được đột biến thì bệnh nhân sẽ được tiếp tục khảo
sát đột biến gen ở giai đoạn 2.
2. Việc khảo sát gen ở giai đoạn 2 được bắt đầu với những đột biến
thường gặp của GJB2 (đã được ghi nhận trong nghiên cứu của
Nguyễn Thuỳ Dương và của chúng tôi) gồm c.109G>A, c.79G>A và
c.341A>G trước khi tiến hành khảo sát các đột biến còn lại của gen
GJB2 để giảm thiểu chi phí dành cho việc xét nghiệm.
17
3. Do gen trên ty thể có kích thước nhỏ, chi phí xét nghiệm khơng cao
nên có thể xét nghiệm gen 12S_rRNA được khuyến cáo nên thực hiện
trước tiên đối với những bệnh nhân có tiền căn khiếm thính mang tính
gia đình, giảm thính lực sau sử dụng thuốc aminoglycoside.
4. Nếu khơng phát hiện có đột biến ở giai đoạn 3, bệnh nhân tiếp tục
được khảo sát lần lượt đột biến của gen MYO15A, MYO7A, SLC26A4.
5. Sau giai đoạn 4, nếu chưa phát hiện có đột biến, bệnh nhân sẽ được
khảo sát các đột biến gen khác bằng kỹ thuật giải trình tự thế hệ mới
(NGS).
Hình 0.5. Quy trình khảo sát đột biến gen có thể thực hiện tại Việt Nam
Xác định đột biến gen không những giúp chúng ta giải đáp được
thắc mắc của phụ huynh tại sao trẻ bị khiếm thính mà còn hỗ trợ cho việc
tiên lượng diễn tiến của tình trạng khiếm thính và sức khoẻ của trẻ trong
tương lai. Hiện tại, cấy điện ốc tai vẫn được xem là một phương pháp điều
trị khiếm thính hữu hiệu và hiệu quả của phẫu thuật này ở trẻ có đột biến
gen GJB2 hoặc SLC26A4 sẽ cao hơn so với ở trẻ khiếm thính do những
nguyên nhân khác. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy đột biến
GJB2 là nguyên nhân gây khiếm thính bẩm sinh thường gặp nhất ở Việt
Nam do vậy có thể tiên lượng khả năng thành công của phương pháp cấy
điện ốc tai cho trẻ khiếm thính ở Việt Nam sẽ cao hơn so với những nước
18
có tỷ lệ đột biến gen GJB2 thấp hơn. Thực hiện xét nghiệm đột biến gen
trước khi cấy điện ốc tai giúp phẫu thuật viên có thêm thơng tin để tư vấn
cho bệnh nhân, đồng thời dự phòng nguy cơ có thể xảy ra trong và sau
phẫu thuật liên quan đến những bất thường do đột biến gen gây ra.
4.3.TƯƠNG QUAN VỀ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ THÍNH HỌC
GIỮA TRẺ CÓ ĐỘT BIẾN GEN VÀ TRẺ CHƯA XÁC ĐỊNH
ĐƯỢC CÓ ĐỘT BIẾN GEN
4.3.1. Tương quan giữa đột biến gen và tình trạng khiếm thính
+ Mức độ khiếm thính
Đa số các trường hợp phát hiện có đột biến gen đều khiếm thính ở
mức độ từ nặng đến sâu (89,34%), chỉ có 8 trường hợp khiếm thính ở mức
độ trung bình chiếm tỷ lệ 10,66%. Kết quả của chúng tôi phù hợp với
nhiều nghiên cứu khác trên thế giới của D.Mehta. C.Sloan, Calin Lazar.
Theo các tác giả này, đột biến gen là nguyên nhân chủ yếu gây khiếm
thính nặng hoặc sâu. Điều này không chỉ ảnh hưởng nhiều đến sự phát
triển ngôn ngữ và chất lượng cuộc sống của trẻ mà còn là gánh nặng về
tâm lý và kinh tế cho gia đình của trẻ. Do đó chủ động tầm sốt và can
thiệp khiếm thính thơng qua việc tham vấn di truyền trước khi mang thai
hoặc trong thai kỳ, đặc biệt đối với những trường hợp có tiền căn gia đình
là rất cần thiết.
Tầm sốt gen gây khiếm thính trong thai kỳ đã được thực hiện ở nhiều
quốc gia trên thế giới từ năm 2003, tập trung chủ yếu vào những đột biến
gen thường gặp đặc trưng ở từng dân tộc hay từng quốc gia như GJB2,
GJB3, SLC26A4, 12S_rRNA. Theo nghiên cứu của Y.Fang (2017), tầm
sốt đột biến gen gây khiếm thính ở phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh có
thể tiết kiệm đáng kể chi phí dành cho Y tế và chăm sóc sức khoẻ ban
đầu.
Dựa theo kết quả nghiên cứu của chúng tơi, bước đầu có thể tầm sốt
gen GJB2, MYO15A, MYO7A, SLC26A4, 12S_rRNA 1555A>G trong
thai kỳ cho những trường hợp có nguy cơ sinh con bị khiếm thính cao như:
• Vợ, chồng hoặc cả hai bị khiếm thính bẩm sinh;
• Đã từng sinh con bị khiếm thính bẩm sinh;
19
•
Tiền căn gia đình có người bị khiếm thính bẩm sinh.
Hình 0.6. Quy trình khảo sát đột biến gen gây khiếm thính tiền sản
+
Thời điểm khiếm thính: Đa số các trường hợp có đột biến gen trong
nghiên cứu của chúng tơi đều khiếm thính trước ngơn ngữ (88%), chỉ
có 9 trường hợp khiếm thính tiến triển xảy ra ở giai đoạn sau ngôn
ngữ chiếm tỷ lệ 12 %. Đột biến gen được tìm thấy trong những trường
hợp khiếm thính tiến triển bao gồm GJB2, MYH14, MYO15A và
SLC26A4. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu
được thực hiện ở Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan của
Pandey, C.Sloan, Choi…Theo các tác giả này, đột biến gen thường
gây khiếm thính trước ngơn ngữ, chỉ có một tỷ lệ nhỏ gây giảm thính
lực tiến triển dẫn đến khiếm thính nặng hoặc sâu trước tuổi dậy thì.
Nếu khơng thực hiện tầm sốt đột biến gen sẽ có nhiều trường hợp
khiếm thính bị bỏ qua hoặc phát hiện trễ gây ảnh hưởng đến sự phát
triển ngôn ngữ, chất lượng cuộc sống và hiệu quả điều trị.
4.3.2. Tương quan về đặc điểm lâm sàng và thính học giữa trẻ có đột
biến gen và trẻ chưa xác định được có đột biến gen
4.3.2.1.Tương quan về lâm sàng: Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận
thời điểm phát hiện khiếm thính trung bình ở trẻ có đột biến gen (30,48
tháng) muộn hơn so với nhóm trẻ chưa xác định được đột biến gen (18,19
20
tháng), P<0,05. Mặc dù có sự khác biệt về thời điểm phát hiện nhưng
giữa hai nhóm trẻ này lại khơng có sự khác biệt về lý do phát hiện, tiền
căn gia đình có người bị khiếm thính bẩm sinh, các dị tật và bệnh lý kèm
theo. Ghi nhận của chúng tơi có nhiều điểm tương đồng với các nghiên
cứu của Antoni, Cushingm Kenna, Lammens. Theo các tác giả này, nguy
cơ khiếm thính sẽ cao hơn nếu gia đình có người bị khiếm thính bẩm sinh.
Tuy nhiên khơng có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ của yếu tố tiền căn gia
đình giữa 2 nhóm bệnh nhân khiếm thính do di truyền và do các nguyên
nhân khác. Trên thực tế rất khó dựa vào lâm sàng để xác định nguyên
nhân gây khiếm thính, đặc biệt đối với những trường hợp khiếm thính
trước ngơn ngữ và khơng ghi nhận có yếu tố nguy cơ nào. Đột biến gen
có thể gây ra những bất thường ở những cơ quan khác nhưng phần lớn
triệu chứng sẽ xuất hiện muộn hơn biểu hiện khiếm thính. Do đó nhiều
quốc gia đã đưa quy trình khảo sát gen vào chương trình tầm sốt khiếm
thính ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ nhằm xác định nguyên nhân gây khiếm
thính, phát hiện sớm những bệnh lý tiềm ẩn liên quan đến đột biến gen
gây ra để có kế hoạch theo dõi, kiểm sốt và can thiệp thích hợp. Tỷ lệ
đột biến gen cao trong nghiên cứu của chúng tôi (82,42%) là cơ sở để đề
xuất thực hiện xét nghiệm gen đối với trẻ khiếm thính nhưng chưa xác
định được nguyên nhân trên lâm sàng.
4.3.2.2. Tương quan về tình trạng thính học
+
Mức độ khiếm thính: Nghiên cứu của chúng tơi ghi nhận khơng có
sự khác biệt về mức độ khiếm thính giữa trẻ có đột biến gen và trẻ
chưa xác định được đột biến gen, (P>0,05). Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu khác trên thế giới của Wan Du, D.Mehta, Amboise
Wonkam. Nhiều quốc gia đã đưa việc khảo sát gen vào quy trình tầm
sốt và can thiệp khiếm thính. Tuy nhiên hiện tại điều này rất khó
thực hiện ở Việt Nam do chi phí dành cho việc xét nghiệm gen còn
quá cao. Với ghi nhận đa số trường hợp trong nghiên cứu đều khiếm
thính ở mức độ nặng hoặc sâu, để giảm chi phí và thời gian dành cho
việc chẩn đốn, chúng tơi xin đề xuất bước đầu chỉ khảo sát đột biến
gen đối với bệnh nhân khiếm thính từ mức độ nặng trở lên.
21