Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.59 KB, 101 trang )
5
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Nấm lớn
Nấm là một loài sinh vật có giá trị to lớn đối với con người, cách đây 3000 năm,
con người đã biết dùng nấm làm thức ăn. Mặc dù như vậy nhưng các hiểu biết về nấm
là rất khác nhau, phụ thuộc vào sự khác nhau về loài, sự khác nhau về nguồn gốc, về
đặc điểm địa lý của chúng.
Đối với nấm lớn trong những năm cuối thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã kết
hợp phân loại truyền thống với phân loại dựa trên những tiêu chuẩn hiện đại như: các
phản ứng hoá học, sự phân tính, hệ sợi nấm, kiểu gây mục, đặc điểm nuôi cấy, đặc biệt
là cấu trúc phân tử ADN.
Trong lịch sử nghiên cứu về thành phần hoá học của nấm lớn, hợp chất chuyển
hoá bậc hai được phân lập đầu tiên từ nấm lớn P.glaucoma là axit mycophenolic được
công bố bởi Gosio. Đến năm 1929, nhà bác học Alexander Fleming công bố hợp chất
penicillin được phân lập từ nấm mốc Penicillium notatum, có khả năng kháng khuẩn
hiệu quả được sử dụng rộng rãi trong chiến tranh thế giới lần thứ II. Đây là sự phát
hiện vĩ đại, quan trọng mở ra con đường mới cho việc tìm ra các loại thuốc trong y học
hiện đại.
Năm 1940, các chất chuyển hoá bậc hai từ nấm lớn mới thật sự được sự chú ý
đặc biệt. Từ đó đến nay, các nhà khoa học phân lập được khoảng hơn 8.600 hợp chất
chuyển hoá bậc hai có hoạt tính sinh học có nguồn gốc từ các loài nấm lớn [33,93,97].
1.2. Thành phần dinh dưỡng của nấm
1.2.1. Hàm lượng chất khô
Hàm lượng chất khô của nấm tươi tương đối thấp, thông thường khoảng 10%,
chủ yếu bao gồm carbohydrate, protein, chất xơ và khoáng chất. Khi nghiên cứu thành
phần hóa học của nấm, hàm lượng nước chỉ là thơng số có ý nghĩa với nấm tươi, nó
phụ thuộc vào điều kiện ni trồng, thời tiết, khí hậu, điều kiện thu hái, hàm lượng
nước trong quả thể nấm tươi chiếm khoảng 90%. Các dữ liệu được công bố về thành
phần chất khơ của nấm được trình bày trong bảng 1.1 [31,32].
6
Bảng 1.1. Hàm lượng chất khô của một số loài nấm (%)
Loài
B. aereus
B. edulis
B. speciosus
C. aureus
Lactarius deliciosus
Lactarius hatsudake
Lactarius volemus
L. crocipodium
Lentinula edodes
R. virescens
S. aspratus
T. matsutake
Carbohydrate
34,0
30,6
28,6
61,5
25,0
38,2
15,0
12,8
30,2
13,4
64,6
36,7
Sợi thô Chất đạm thơ Chất béo thơ
17,0
26,9
2,1
15,3
28,7
4,1
21,0
28,1
2,9
5,2
14,1
4,0
36,3
20,2
2,5
31,8
15,3
1,0
40,0
17,6
6,7
37,9
29,3
1,0
39,4
17,1
1,9
32,8
28,3
1,5
5,1
12,0
2,8
29,1
14,3
5,0
Tro
8,5
9,2
7,6
9,2
7,5
7,3
13,3
5,8
4,3
11,9
10,4
8,9
Các lồi được trình bày ở bảng 1.1 cho ta thấy hàm lượng carbohydrate,
protein thô, chất xơ cao, tương đối giàu khống chất, và chất béo thơ tương đối thấp
[68].
1.2.2. Protein và acid amin
Giá trị dinh dưỡng của nấm chủ yếu liên quan đến hàm lượng protein của
chúng. Protein nấm được coi là có chất lượng dinh dưỡng cao hơn so với protein
thực vật (FAO, 1991) [44]. Hàm lượng protein và acid amin trong nấm không chỉ
phụ thuộc vào các yếu tố môi trường và giai đoạn sinh trưởng của quả thể, mà còn
phụ thuộc vào các loài [32]. Do tỷ lệ cao của các hợp chất nitơ phi protein, đặc
biệt là chitin khó tiêu hóa, chúng tôi đã sử dụng hệ số chuyển đổi 4,39 để tính hàm
lượng protein. Nấm thường chứa protein 12,0–29,3% (bảng 1.1). Tuy nhiên, một
số tác giả xác định hàm lượng protein cao hơn cho Cantharellus cibarius và
Lepista nuda lần lượt là 54 và 59% dm [21].
Thành phần acid amin trong nấm gần hoặc tốt hơn so với protein đậu nành,
thậm chí đối với một số lồi nấm, chế phẩm có thể tương tự như trứng gà [123]. Các
acid amin thiết yếu khơng thể được tổng hợp bởi con người nhưng có thể được cung
cấp bởi nấm. Do đó, tỷ lệ các acid amin thiết yếu (EAA) với tổng acid amin (TAA)
đưa ra một ý tưởng về chất lượng dinh dưỡng của protein trong thực phẩm. Dữ liệu về
thiết yếu (Lys, Thr, Val, Ile, Leu, Met, Try, Phe) và không thiết yếu (Arg, Ala, Tyr,
Gly, Ser, Pro, của anh, Asp, Glu, Cys) của các acid amin cho một số loài nấm được
đưa ra trong bảng 1.2 và 1.3.
7
Một dữ liệu lớn về thành phần acid amin đã được công bố gần đây với 41 lồi
nấm từ Vân Nam. Trong nghiên cứu đó thành phần acid amin, Dictyophora indusiata
thấp với 8000 mg kg- 1 trọng lượng tươi và chỉ số củ cao hơn với 32.000 mg kg - 1 trọng
lượng tươi trong acid amin, và tỷ lệ EAA / TAA là 0,27-0,51 [102]. L. crocipodium và
Boletus specio- sus cho thấy tỷ lệ EAA / TAA tương tự với 0,31 và 0,43 tương ứng
(bảng 1.3).
Tỷ lệ các acid amin thiết yếu (EAA) và các acid amin không thiết yếu (TAA) là
0,53–0,70 đối với nấm Russula và 0,45–0,77 đối với nấm Boletus [123,129]. Những
kết quả này đáp ứng tốt với giá trị tham chiếu là 0,6 được FAO / WHO (1973) đề
xuất. Tỷ lệ cao hơn được tìm thấy đối với nấm C. cornucopioides, S. ugoso-annulata,
L. amethystina và C. ventricosum, tương ứng là 0,82; 0,96; 1,52 và 1,86 (Liu và cộng
sự, 2012) [68]. Cỏ linh lăng, do thành phần thuận lợi của các acid amin, được coi là
một loại cây có giá trị dinh dưỡng cao nhất. Nấm Laccaria amethystina và C.
ventricosum cho thấy thành phần acid amin tương tự như của cỏ linh lăng.
Acid aspartic và glutamic là các thành phần giống như bột ngọt (MSG), cung
cấp hương vị nấm điển hình nhất, vị umami hoặc vị ngon miệng [106]. Tỷ lệ của các
acid amin umami đối với tổng số acid amin là tương đối cao và giá trị trung bình là
0,22 được phát hiện bởi Sun và đồng nghiệp (2012) [102].
Bảng 1.2. Thành phần acid amin thiết yếu trong một số loài nấm (mg/kg chất khơ).
Lồi
B. aereus
B. edulis
B. speciosus
Cortinarius rufoolivaceus
C. aureus
Lactarius
deliciosus
Lactarius
hatsudake
Lactarius
hygrophroides
Lactarius volemus
L. crocipodium
R. virescens
S. aspratus
Collybia
albuminosa
Lys
Thr
Val
Ile
Leu
Met
Try
Phe
EAA
1040
990
1200
1670
2110
2120
2560
2750
3730
3100
2030
4190
2350
2470
3500
–
–
830
1290
1700
1860
12450
12800
18120
16200
13900
36800
8300
10700
–
9200
105500
4441
9230
6794
5054
7014
440
750
690
1040
0
2813
–
4240
39586
960
930
1300
1350
2240
360
330
880
8350
750
890
1040
1620
2480
320
290
800
8190
21348
10227
12284
9787
13563
6676
12328
4561
90774
500
1580
850
4602
820
1750
1350
8479
990
2840
1310
4787
1490
1080
1360
4187
2060
1930
1660
5780
160
580
890
1476
150
–
400
–
750
1240
1440
3913
6920
11000
9260
33224
13651
19889
12748
10231
19048
5900
–
10704
92170
8
Bảng 1.3. Thành phần acid amin không thiết yếu trong một số lồi nấm (mg /kg chất khơ)
EAA/
Lồi
Arg
Ala
Tyr
Gly
Ser
Pro
His
Asp
Glu
Cys
B. aereus
1700
3570
700
2230
1840
780
440
3320
7610
–
35,9%
B. edulis
3360
3570
500
3650
1280
2720
2080
2860
4930
–
33,9%
B. speciosus
2050
3750
1060
2510
2300
740
510
3870
6850
–
43,4%
12900
17800
9100
10400
15600
13000
10800
23000
65000
16900
35,2%
2240
360
330
880
14525
6121
3674
11263
16401
485
31,5%
1050
1830
860
1150
870
860
660
1630
3490
–
40,2%
1660
890
400
1440
930
510
320
1290
4440
–
42,1%
12798
14288
15576
11970
7998
16354
8052
19783
27462
584
40,2%
880
1000
350
820
720
240
210
1410
3550
–
43,0%
L.crocipodium
1750
3980
650
4500
2430
450
1010
3490
6840
–
30,5%
R. virescens
950
1120
1720
1270
1430
1280
720
2480
2280
–
41,1%
S. aspratus
6035
6563
4567
5228
10859
5014
2745
9043
15436
175
33,4%
14060
18621
14390
13413
31064
11035
24213
25801
37235
3142
32,3%
Cortinarius
rufo-olivaceus
C. aureus
Lactarius
deliciosus
Lactarius
hatsudake
Lactarius
hygrophroides
Lactarius
volemus
Collybia
albuminosa
TAA
1.2.3. Carbohydrate
Carbohydrate trong thực phẩm cung cấp năng lượng, loại carbohydrate có thể
tiêu hóa được tìm thấy trong nấm như: mannitol (0,3-5,5% dm) [108], glucose (0,5–
3,6% dm) [59] và glycogen (1,0–1,6% dm) [39]. Loại carbohydrate không tiêu hóa
được tạo thành một phần lớn trong tổng lượng carbohydrate của nấm, các hợp chất
chính loại này là oligosaccharides và polysaccharides không tinh bột như: chitin, βglucan và mannan [31]. Hàm lượng carbohydrate của nấm thu được ở Trung Quốc
khác nhau ở các loài và dao động từ 12,8% đến 64,6% dw (Bảng 1.1). Trong một
nghiên cứu của Liu và đồng nghiệp (2012) [68], hàm lượng carbohydrate của C.
maxima, C. ventricosum, Stropharia rugoso-annulata, Craterellus cornucopioides và
Laccaria amethystina từ 57% đến 65% dm. Hàm lượng carbohydrate lên đến 70% dm
được tìm thấy ở Agaricus campestris và Armillaria mellea [112], trong khi tỷ lệ thấp
gần 13% đã được quan sát thấy ở Leccinum crocipodium và Russula virescens (bảng
1.1).
9
Chất xơ thô là một nhóm carbohydrate khó tiêu hóa. Nó có thể cải thiện chức
năng của đường tiêu hóa và cũng làm giảm nồng độ glucose và cholesterol trong máu.
Lượng hòa tan và khơng hòa tan của chất xơ trong nấm Boleztus nhất định là khoảng
4-9% và 22-30% dm, tương ứng [72]. Một số nấm được tìm thấy có ít chất xơ thơ, ví
dụ: cho Craterellus aureus và Sarcodon aspratus giá trị là 5% dm, trong khi đối với
nhiều nghiên cứu khác, lên đến 40% dm đã được công bố.
Trong các chất chiết xuất phân cực của G. lucidum có hơn 200 polysaccaride đã
được báo cáo với hoạt tính kháng u và điều hòa miễn dịch. Các polysaccharide hoạt
tính sinh học chính được phân lập từ loại nấm này là D-glucan với β-1-3 và β-1-6 là
những liên kết glycoside. Cấu trúc cơ bản của các carbohydrate đều thuộc loại β-1-3D-glucopyran và chuỗi bên với 1-15 đơn vị β 1-6 monoglucosyl với một trọng lượng
phân tử trung bình 1.050.000 Da [19, 125, 126].
Một số ứng dụng của ganoderma polysaccharide là kháng virus, kháng viêm,
chống oxy hóa, hạ đường huyết, chống bức xạ và bảo vệ DNA [84].
1.2.4. Lipid
Hàm lượng chất béo thô của nấm thường thấp từ 1,0% đến 6,7% (bảng 1.1).
Linoleic và acid linolenic là các acid béo cần thiết cho con người, được lấy từ thực
phẩm. Acid linoleic thu được từ chất béo acid omega-6 và acid linolenic thu từ acid
béo omega-3. Dữ liệu được công bố trên thành phần acid béo của nấm khá là rời rạc.
Giá trị (% của tổng số axit béo) cho stearic, palmitic, linoleic và acid oleic trong
Tricholoma matsutake lần lượt là 2%, 9%, 27% và 58% (Liu, Wang, Zhou, Guo, &
Hu, 2010) [69]. Tỷ lệ acid béo bão hòa/khơng bão hòa (SFA / UFA) là một chỉ số quan
trọng để đánh giá hàm lượng acid béo trong nấm [127]. Trong nghiên cứu của Liu và
các đồng nghiệp (2012) [68], tỷ lệ SFA / UFA dao động từ 4,3 đến 12,7 cho năm các
loài nấm tự nhiên, trong khi giá trị thấp hơn từ 0,7–4,5 đã được quan sát đối với nấm
trồng [127].
1.2.5. Vitamin
Nấm có chứa một số vitamin chính bao gồm: thiamine, riboflavin, niacin,
tocopherol và vitamin D [31,55]. Đối với một số loài, hàm lượng thiamine, riboflavin,
niacin và ascorbic là 0,02-1,6, 0,3-4,5, 1,2-6,6 và 1,3-2,7 mg 100g-1 dm, tương ứng
[89, 105,117,123,129,130]. Tocopherol và vitamin D2 được tìm thấy ở một phạm vi
8,9-45 và 4,7-194 mg 100 g-1 dm đối với nấm như Boletus edulis, Boletus speciosus và
T. ganhajun [115,129].
10
Nấu ăn và chế biến nấm công nghiệp đã được tìm thấy có tác dụng rõ rệt về
lượng vitamin trong sản phẩm. Vitamin B1 và B2 bị mất trong q trình chế biến cơng
nghiệp (đóng hộp) Boletus với tỷ lệ tương ứng là 21-57% và 8-74% [129]. Trong một
nghiên cứu khác, tỷ lệ mất vitamin B1 bằng cách xử lý và đóng hộp lên tới 76-82%
[129], và 86-99% cho vitamine B2 [123].
1.2.6. Khoáng chất
Hàm lượng tro của các quả thể thực tế ít được nghiên cứu nhất, nó được coi là
thành phần không đáng kể để đánh giá chất lượng nấm. Hơn nữa, hàm lượng tro chỉ
mang lại một ý tưởng thơ sơ về hàm lượng khống chất của các loại quả thể hoặc phần
hình thái của nó. Nấm mọc hoang dã có thể tích tụ trong quả thể của chúng khối lượng
lớn cả hai yếu tố đa lượng và vi lượng cần thiết cho nấm và người. Kali (K) và phốt
pho (P) là hai yếu tố phổ biến trong các quả thể sau đó là các nguyên tố Ca, Mg, Na và
Fe.
Hàm lượng phospho và 8 kim loại trong nấm được đưa ra cho 10 loài nấm đã
được xác định trong bảng 1.4. Hàm lượng kali là từ 16000 đến 37000 mg kg1 dm,
phospho là giữa 4820 và 19000 mg kg1 dm, và Ca, Mg và Na. Hàm lượng sắt (Fe)
trong Thelehhora ganhajun là 1500 mg kg1 dm, đặc biệt cao hơn so với loại khác nấm.
Đối với các kim loại như Zn, Cu và Mn, hàm lượng của chúng dao động từ 20–140;
20–180 và 10–80 mg kg1 dm, tương ứng. Đối với Cu và Mn ở 16 loài, hàm lượng thay
đổi từ 13–105 và 10–197 mg kg1 dm, và các giá trị này cao hơn so với các loài nấm
trồng, lần lượt là 2–77 và 3–29 mg kg1 dm.
Bảng 1.4. Hàm lượng nguyên tố thiết yếu trong một số lồi nấm (mg /kg chất khơ)
Lồi
K
P
Ca
Mg
Na
Fe
Zn
Cu
Mn
C. ventricosum
27230
4820
1973
1538
349
673
88
38
9
C. maxima
26430
5390
962
520
1692
308
127
52
33
C. aureus
20637
19019
146
1050
–
718
24
25
38
C. cornucopioides
36620
7130
1255
978
1185
413
61
43
27
L. amethystea
25290
5040
2004
1482
361
211
59
36
35
L. hygrophroides
23456
–
178
910
1645
171
102
184
31
S. aspratus
27909
17807
76
752
–
318
117
22
34
S. rugoso-annulata
16320
7290
1371
1135
411
195
102
29
59
T. ganhajun
24296
7704
741
815
156
1556
58
22
50
T. matsutake
23520
5040
410
–
310
369
140
87
83
11
Các công bố về các nguyên tố vi lượng như Cr, Ni, Li, Sr và Sb trong nấm rất
ít. Hàm lượng của Cr, Co và Ni đối với một số loài dao động từ 0,5-6,3, 0,3-2,3 và 1,821,2 mg kg1 dm, tương ứng. Li, Sr và Sb nhỏ hơn 0,1 mg kg1 dm ở Russula virescens.
Chín nguyên tố đất hiếm đã được xác định trong Tremellodon gelatinosum và với hàm
lượng là 0,01, 0,05, 0,17 và 0,34 mg kg1 dm đối với Eu, Th, La và Ce, tương ứng.
Se rất cần trong quá trình sinh tổng hợp các selenoenzyme quan trọng và về cơ
bản là cần thiết cho con người . Đất, trầm tích và nước là nguồn chính của selen trong
nấm. Giá trị trung bình của Se trong một số lồi nấm được thu thập ở Trung Quốc là
6,8 mg kg1 dm và tối đa cho Bolrysus (Xerocomus) chrysenteron (18,8 mg kg1 dm)
gấp tới 70 lần hàm lượng của Se trong đất . Hàm lượng Se của một số loại nấm Boletus
thường vượt quá 10 mg kg1 dm và ở Boletus aestivalis (reticulatus) từ Bồ Đào Nha là
48,5 mg kg1 dm và ở Boletus pinophilus ở mức 19,9 mg kg1 dm.
Đã có một số công bố về hàm lượng của Ge trong thực phẩm và hoa quả. Chưa
có bất kỳ cơng trình nào cơng bố hàm lượng Ge trong các lồi nấm nghiên cứu, ngoại
trừ công bố hàm lượng Ge trong các lồi nấm Phellinus ở Đơng Bắc Thái Lan từ 0,321,70 mg/kg trọng lượng tươi. Ge là nguyên tố vi lượng thiết yếu trong cơ thể và rất
quan trọng cho sức khỏe con người. Các hợp chất của Ge có một số hoạt tính sinh học,
có hoạt tính chống oxi hóa và là thành phần kích thích miễn dịch được sử dụng để
ngăn chặn sự tiến triển của bệnh ung thư và tiêu diệt tế bào ung thư, HIV. Các hợp
chất hữu cơ của Ge được xem như các chất tăng cường sức khỏe và chống bệnh tật
[21, 31, 32].
1.3. Chi Daldinia
1.3.1. Đặc điểm chung về hình thái
Chi Daldinia thuộc nhóm nấm lớn rất phổ biến. Chi Daldinia có hơn 80
lồi Daldinia được liệt kê trong Index Fungorum (CABI 2012), nhưng chi này chỉ có
25 lồi có giá trị dược liệu.
1.3.2. Thành phần hóa học
Đến nay đã có nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới về thành
phần hóa học và phát hiện ra được nhiều chất có hoạt tính sinh học từ các lồi nấm
thuộc chi nấm này [26,52,56,70,88,90,91,92,93,121]. Từ loài nấm Daldinia chidiae đã
phân lập các hợp chất daldiaol A-C có hoạt tính kháng viêm. Một số hợp chất dẫn xuất
12
cytochalasin, các hợp chất polyketide, lactone cũng được tách ra từ các loài Daldinia
vernicosa, Daldinia eschscholzii, Daldinia eschscholzii, Daldinia loculata...
Năm 2000, Nagasawa và cộng sự phân lập được cytochalasin (1) và 14 dẫn xuất
của từ quả thể nấm Daldinia vernicosa [93]. Cytochalasin (1) và một số dẫn xuất của
nó được kiểm chứng có hoạt tính cao kháng dòng ung thư tế bào ruột kết HCT116.
(1) R=H: cytochalasin
Năm 2011, Zhang Y. L. và cộng sự đã phân lập được hợp chất neocytochalasin
(2) và một số hợp chất polyketit từ quả thể nấm Daldinia eschscholzii [93].
(2) Neocytochalasin
Năm 2011, Amy K. N và cộng sự phân lập được 4 hợp chất polyketide từ quả thể
nấm Daldinia loculata là 5-hydroxy-2-methyl-chroman-4-one (3), peperovulcanone A
(4), 8-methoxynaphtalen-1-ol (5) [93].
(3) 5-hydroxy-2-methyl
(4) peperovulcanone
(5) 8-methoxynaphtalen-1-ol
-chroman-4-one
Năm 2012, Kustiariyah T và cộng sự phân lập được hai hợp chất lactone từ quả
thể nấm Daldinia eschscholzii [93]:
13
(6) Helicascolide C
(7) Helicascolide A
1.4. Nấm than (Daldinia concentrica)
1.4.1. Đặc điểm hình thái và phân bố
-
Chi: Daldinia.
-
Tên khoa học: Daldinia concentrca
Hình 1.1. Nấm Daldinia concentrica
Quả nang đệm kích thước 1,5-2cm dạng bán cầu hồn chỉnh, hơi thót lại ở
phần đính vào giá thể, có vỏ giòn, dễ vỡ, khi non màu nâu hồng có sắc thái tím, khi
khơ và già có màu nâu đen. Dưới lớp vỏ là những nang quả kích thước 1-1,5 x 2-2,5
mm hình chai, mơ màu đen, có các vòng tròn rõ rệt. Nang có kích thước 60-100 x 812 µm hình trụ, chứa 8 nang bào tử. Bào tử hình elip-thoi, kích thước 11,5-15,5 x 68 µm, màu đen. Mơ nấm nâu đen với các vòng đồng tâm, được tạo thành từ một loại
sợi nấm có vách ngang khơng có khóa, sợi xếp song song; kích thước 6,5-7,5 µm.
Mọc trên gỗ mục, đơn độc hay dính lại thành từng mảng, mọc khắp nơi
trên gỗ, hay gặp.
Phân bố: Châu Á, được biết đến ở Ấn Độ, phía đơng Trung Quốc, Philippin, một
số đảo ở Thái Bình Dương, Autralia [11].
1.4.2. Thành phần hóa học và hoạt tính sinh học
14
Từ lồi nấm than Daldinia concentrica đã phân lập được một hợp chất
benzofuran có tên gọi concenticolide mới ngăn chặn virut HIV đi vào tế bào người
bình thường và hợp chất caruilignan C thể hiện khả năng chống lại ảnh hưởng thối
hóa thần kinh do thiếu sắt gây ra trong tế bào thần kinh của vỏ não chuột và một số
chất có khả năng gây độc và chống lại một số tế bào ung thư ở người: tế bào KB (ung
thư biểu bì ở người), MCF-7 (ung thư vú ở người), SK-LU-1 (ung thư phổi con người)
và Hep-G2 (ung thư biểu mô tế bào gan). Nấm than Daldinia concentrica cũng đã
được sử dụng trong y học cổ truyền châu Phi từ rất lâu [91].
Năm 2006, Lee I. K và cộng sự phân lập được hai hợp chất mới là diaporthin (8)
và orthosporin (9) từ quả thể D. concentrica. [93]
(8) Diaporthin
(9) Orthosporin
Năm 2008, Qin X. D và cộng sự phân lập được 6 hợp chất sesquiterpen mới từ
quả thể nấm D. concentrica [93] là methyl-7-acetoxydeacethylbotryoloate (10), 7acetoxydeacethyl
botryenedial
(11),
7-hydroxy
botryenalol
(12),
7,8-
dehydronorbotryal (13), 7-acetoxydehydrobotrydienal (14), và 7-acetoxy-15methoxy-10-O-methyldeacethyldihydrobotrydial (15).
(10)
(13)
(11)
(14)
(12)
(15)
15
1.5. Chi linh chi (Ganoderma)
1.5.1. Đặc điểm hình thái
Các loại nấm thuộc chi Ganoderma đã được sử dụng trong y học cổ truyền để
điều trị và phòng ngừa một số bệnh như: ung thư, cao huyết áp, viêm phế quản mãn
tính, bệnh hen suyễn, thuốc bổ và thuốc an thần. Gần đây, đã có các chế phẩm thực
phẩm chức năng làm từ sợi nấm, quả thể và bào tử của loài G. lucidum trên thị
trường nhằm bổ sung vào chế độ ăn uống hỗ trợ điều trị kháng u, tăng khả năng miễn
dịch và khả năng chống oxi hóa [19]. Thị trường thực phẩm chức năng có nguồn gốc
từ G. lucidum ước tính doanh thu khoảng 5-6 tỷ USD/năm, trong đó thị trường Hoa
Kỳ tiêu thụ khoảng 1,6 tỷ USD [19]. Một số loài khác như G. tsugae, G. applanatum,
G. colossum, G. concinna, G. pfeifferi… cũng có tác dụng hỗ trợ điều trị và chăm sóc
sức khỏe con người [15,16,19].
Trong hơn 50 năm, các nhà khoa học đã nghiên cứu thành phần hóa học và
hoạt tính sinh học của các lồi nấm thuộc chi này, đã phân lập được hơn 450 các hợp
chất. Cấu trúc của các hợp chất chuyển đổi bậc hai phân lập được bao gồm:
triterpenoid pentacyclic khung lanostan, meroterpenoid, sesquiterpenoid, steroid,
alkaloid, prenyl hydroquinon, benzofuran, và benzenoid. G. lucidum là loài được
nghiên cứu sâu và rộng về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học [74,86,96,114].
Ngồi ra, một số loài đã được nghiên cứu như G. applanatum, G. colossum, G.
sinense, G. cochlear, G. tsugae, G. amboinense, G. orbiforme, G.resinacem, G.
hainanense, G. concinna, G. pfeifferi, G.neojaponicum, G. tropicum, G. australe, G.
carnosum, G. fornicatum, G. applanatum, G. mastoporum, G. theaecolum, G.
boninense, G. capense và G. annulare…[20,23,24,60,61,62,64,67,73]
Nấm linh chi G. lucidum là loài được nghiên cứu nhiều nhất của họ
Ganodermataceae. Nấm linh chi G. lucidum được dùng để điều trị nhiều loại bệnh như:
tăng cường hệ miễn dịch, viêm gan, tiểu đường, ung thư, giảm bạch cầu, xơ vữa động
mạch, bệnh trĩ, mệt mỏi mãn tính, mất ngủ, chóng mặt và cao huyết áp
[41,43,46,48,50,51].
1.5.2. Thành phần hóa học và hoạt tính sinh học
Các hợp chất triterpenoid được phân lập từ nấm linh chi (Ganoderma) có kiểu
khung lanosterol. Cho đến nay, có hơn 450 triterpenoid khác nhau được phân lập từ
dịch chiết nấm linh chi (Ganoderma). Hầu hết đều là dẫn xuất lanosterol với mức độ
oxy hố cao có dược tính như acid ganoderic, ganoderiol, acid ganolucidic, lucidone
và acid lucidenic [19,27,38,45,49,75,76,84,97,104,109,116]. Hệ các chất này có cơng
thức chung như sau: