Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.76 KB, 92 trang )
8
trí, mê muội, tốn tiền của và huỷ hoại sức khoẻ, thậm chí cả sinh mạng, vậy nên
“Hoạt động mê tín phải bị phê phán và loại bỏ”. [13]
Quan điểm mác xít về tơn giáo khơng dừng lại ở vấn đề bản chất, nguồn
gốc, chức năng và tính chất của nó, mà còn rất quan tâm đến việc chỉ ra thái độ,
ngun tắc của người cộng sản khi tiếp cận, giải quyết những vấn đề tơn giáo.
Về thái độ của người cộng sản đối với tơn giáo, mặc dù cho rằng, thế giới
thống nhất ở tính vật chất, ngồi ra khơng có thế giới nào khác ngồi vật chất đang
tồn tại và đương nhiên khơng có thần thánh, ma quỷ nào tồn tại ngồi những đam
mê và dục vọng của chính con người, thế nhưng Chủ nghĩa Mác Lênin khơng bao
giờ chủ trương tun chiến với tơn giáo, mà ngược lại ln tơn trọng niềm tin tơn
giáo của nhân dân. C.Mác từng nói, kẻ nghịch đạo khơng phải là kẻ phỉ báng thần
thánh của quần chúng mà chỉ là người đồng tình với quan điểm quần chúng, người
sáng tạo ra thần thánh.
Có một số người cho rằng, chủ nghĩa Mác Lênin mâu thuẫn tuyệt đối với
đức tin tơn giáo, do đó khơng có thể dung hợp giữa chủ nghĩa xã hội và tơn giáo và
lập luận này là khơng đúng, vì đã chủ quan đẩy mâu thuẫn, từ mâu thuẫn ở
phương diện nhận thức khơng đối kháng, trở thành mâu thuẫn đối kháng.
Lý tưởng của những người cộng sản là xây dựng “Thiên đường” nơi trần
thế bằng bàn tay và khối óc của chính con người. Tuy vậy, người cộng sản khơng
hề có chủ trương phủ nhận tơn giáo mà thừa nhận nó như một nhu cầu tất yếu
của một bộ phận nhân dân trong tiến trình phát triển của lịch sử. Hơn nữa, tơn giáo
và chủ nghĩa xã hội có điểm tương đồng là đều mong muốn có một xã hội hạnh
phúc, cơng bằng, bác ái, lấy điều thiện thắng điều ác.
“Đối với chúng ta, sự thống nhất của cuộc đấu tranh thật sự cách mạng đó
của giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc trên trái đất, là quan trọng
hơn sự thống nhất ý kiến của những người vơ sản về cảnh cực lạc trên thiên
đường” [80, tr.174 ]. Rồi nữa, “Trong cương lĩnh của chúng ta, chúng ta khơng
tun bố và chúng ta khơng nên tun bố chủ nghĩa vơ thần của chúng ta... Khắp
9
nơi bọn tư sản phản động đã chú trọng... khêu lên những sự thù hằn tơn giáo, để
làm cho quần chúng chú ý về phía đó, khiến họ khơng để ý đến những vấn đề
chính trị và kinh tế thật sự quan trọng và chủ yếu, những vấn đề mà giai cấp vơ
sản tồn nước Nga, thực tế đồn kết lại với nhau trong cuộc đấu tranh cách mạng
của mình, hiện đang giải quyết” [80, tr.174175 ].
C.Mác và Ph.Ăng ghen từng căn dặn người cộng sản: “Khơng thể đả kích
tơn giáo dưới hình thức thù địch cũng như dưới hình thức khinh bạc, chung cũng
như riêng. Nghĩa là, nói chung khơng được đả kích vào nó”. [20, tr. 23]
Sau này, Lênin cũng viết: “Còn như tun chiến với tơn giáo, coi đó là nhiệm
vụ chính trị của đảng cơng nhân, thì đó chỉ là một luận điệu vơ chính phủ chủ
nghĩa”. [81, tr.511.]
Vậy, theo chỉ dẫn của các nhà kinh điển mác xít, Nhà nước của giai cấp vơ
sản nên xem tơn giáo là việc tư nhân, nghĩa là khơng nên phê phán những vấn đề
thuộc thế giới bên kia. Chuyện có thiên đường địa ngục, thần này thánh khác là
vấn đề của thần học, của tơn giáo. Nhưng với tư cách là chủ thể quản lý xã hội,
trong đó có tơn giáo, thì Nhà nước có trách nhiệm và quyền hạn trên 2 vấn đề liên
quan đến tơn giáo, đó là Pháp luật và chính trị.
Theo chỉ dẫn đó, trong tiến trình cách mạng Việt Nam, nhà nước ta chưa bao
giờ có chủ trương tiêu diệt tơn giáo, phủ nhận thượng đế của người có đạo, mà
ln tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, nghiêm cấm phân biệt sự đối xử vì lý do
tín ngưỡng, tơn giáo.
Vậy khi giải quyết vấn đề tơn giáo, chúng ta cần phải đứng vững trên
những ngun tắc nào? Về điều này, theo quan điểm mác xít, được khái qt trên
4 ngun tắc sau:
Một: Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tơn giáo phải gắn liền
với q trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Ngun tắc này xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử khi nhận thức và tác
động vào tơn giáo. Theo đó, trước hết phải “Xố bỏ tình trạng nơ lệ về mặt kinh
10
tế, nguồn gốc thật sự của sự mê hoặc nhân loại bằng tơn giáo” [80, tr. 175]. Hay
nói cách khác, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản thân
tồn tại xã hội; muốn xố bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xố
bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy; phải xác lập được một xã hội hiện thực khơng
có áp bức, bất cơng, nghèo đói và thất học... cùng các tệ nạn nảy sinh trong nó. Tất
nhiên việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là một q trình lâu dài, đòi hỏi
phải khai thác và phát huy tiềm năng của mọi cộng đồng xã hội, trong đó có đồng
bào các tơn giáo.
Hai: Tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng
của nhân dân.
Các nhà kinh điển Mác xít quan tâm khơng chỉ tơn trọng quyền tự do tín
ngưỡng, mà còn cả quyền tự do khơng tín ngưỡng. Tơn trọng quyền tự do tín
ngưỡng và khơng tín ngưỡng sẽ bảo đảm quan hệ tốt đẹp giữa những người vơ
thần và hữu thần, giữa những người có tín ngưỡng tơn giáo khác nhau. Nội dung
căn bản của quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng là:
Mọi cơng dân có quyền theo đạo, truyền đạo hoặc bỏ đạo; được hồn tồn
tự do theo tơn giáo mình thích hoặc khơng theo một tơn giáo nào.
Tất cả mọi cơng dân có tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng đều bình đẳng về
nghĩa vụ và quyền lợi.
Tất cả mọi tơn giáo được cơng nhận tư cách pháp nhân đều bình đẳng như
nhau. Nhà nước khơng coi tơn giáo nào là quốc đạo.
Tuy nhiên cần chú ý rằng: Tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng đồng thời phải
chống lại những kẻ lợi dụng tơn giáo vì mục đích phi tơn giáo, mặt khác, khơng
dung túng cho những kẻ hành nghề mê tín dị đoan.
Ba: Có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tơn giáo.
Ngun tắc này có một ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Nó đòi hỏi chủ thể lãnh
đạo, quản lý xã hội khi giải quyết vấn đề tơn giáo phải phù hợp với khơng gian,
11
thời gian cụ thể, như Lênin đã nhắc nhở: “Người mác xít phải biết chú ý đến
tồn bộ tình hình cụ thể” [81, tr. 518]
Bốn: Cần phân biệt hai mặt: nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo và việc chính trị
lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo.
Việc phân biệt vấn đề chính trị và tư tưởng trong các hoạt động tơn giáo
trên thực tế là vấn đề khơng đơn giản, nhưng lại đòi hỏi phải phân biệt rõ, từ đó
mới có giải pháp chính xác. Trong đó, mặt nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo phải được
giải quyết bằng chính sách tự do tín ngưỡng, tơn giáo; còn mặt chính trị lợi dụng
tín ngưỡng, tơn giáo phải được giải quyết bằng giải pháp chính trị. Việc áp dụng
lẫn lộn các loại giải pháp, cũng như tuyệt đối hố một loại giải pháp nào đó đều
là tai hại cho cả tơn giáo và cho chính trị cầm quyền.
Kế thừa và vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin về tơn giáo,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng đặc sắc về vấn đề này.
Trước hết cần thấy, tư tưởng của Người về tín ngưỡng, tơn giáo là sự vận
dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác Lênin vào hồn cảnh lịch sử cụ thể
của Việt Nam. Với Người, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”
[46, tr.268]. Nhưng, xuất phát từ đặc điểm lịch sử, văn hố của dân tộc Á Đơng,
Hồ Chí Minh cho rằng: “C.Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý
nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó
chưa phải là tồn thể nhân loại... Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của
nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đơng. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xơ
viết đảm nhiệm (ban thuộc địa của chúng tơi vừa nhận được thư mời chúng tơi
tham gia cơng tác này)” [45, tr.465].
Cũng trên quan điểm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa MácLênin, Hồ Chí
Minh ln nhấn mạnh đến việc phải xây dựng một xã hội tiến bộ thì mới có thể
giải quyết được vấn đề tơn giáo một cách tốt đẹp. Từ chỗ nhấn mạnh: Tơn giáo
12
khơng hề đối lập với CNXH, Người đã chăm lo chu đáo đến đồng bào có tơn giáo
theo tinh thần “phần xác no ấm, phần hồn thong dong”.
Trong ứng xử với tín đồ, chức sắc tơn giáo, Người thể hiện nổi bật tư
tưởng hồ hợp, khoan dung, đó là sự cảm thơng, chấp nhận và tơn trọng cái dị biệt,
miễn là khơng trái với lợi ích chung của dân tộc, từ đó mà đạt được mục tiêu
tương đồng. Chính vì thế, đồng bào Phật tử thấy Hồ Chí Minh như "Hiện thân"
của vị “Bồ tát Qn Thế Âm” vì "nhân dun" dân tộc Việt Nam đau thương
"trầm ln" trong nỗi nhục mất nước ở cõi "Sha bà" mà xuống cứu khổ cứu nạn.
Ngày nay, trong Phật giáo và trong xã hội Việt Nam, tên Hồ Chí Minh được gán
với quả vị Phật giáo, là Bồ tát Hồ Chí Minh. Còn đồng bào đạo Cơng giáo và đạo
Tin lành ln khâm phục và cảm động về việc, Người đã nguyện hy sinh cho Việt
Nam độc lập, cho thế giới hồ bình, nên thấy Người như bóng dáng của "Đức
Chúa KiTơ” hy sinh thân mình để cứu chuộc nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo với tính cách là những quan điểm,
nguyên tắc, tác giả khái quát như sau:
Thứ nhất, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tơn giáo với dân tộc, tơn giáo
với cách mạng và tơn giáo với giai cấp, đó phải là nội dung cốt lõi trong chủ
trương, chính sách tơn giáo của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, ln phải có tinh thần vận dụng, phát triển ngun lý chủ nghĩa
Mác Lênin và tham khảo kinh nghiệm của các nước khác về vấn đề tơn giáo,
xem đó là cơ sở quyết định cho việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách
tơn giáo phù hợp với từng giai đoạn cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, tơn trọng tự do tín ngưỡng phải đi đơi với đấu tranh chống mọi âm
mưu lợi dụng tơn giáo; phải khắc phục những mặc cảm tơn giáo, những hành vi
làm tổn thương đến tình cảm quần chúng tín đồ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo đã bổ sung cho Chủ nghĩa Mác Lênin
và nó có sức sống từ thực tiễn của đất nước, dân tộc ta, để người cộng sản Việt
Nam có thái độ mềm mại hơn, khách quan hơn đối với tơn giáo.
13
1.1.2. Quản lý nhà nước đối với tơn giáo
1.1.2.1. Khái niệm "Quản lý nhà nước" và “Quản lý nhà nước đối với
tơn giáo”
Khái niệm “quản lý nhà nước” được hiểu ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của Nhà nước, sử
dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các q trình xã hội và hành vi hoạt động
của con người do tất cả các cơ quan Nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp)
tiến hành để thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội.
Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước là dạng quản lý xã hội mang quyền lực
Nhà nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của
các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, UBND các cấp).
Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước của Học viện Hành chính quốc gia
đã nêu: QLNN là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư
pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước; là dạng quản lý
xã hội mang tính quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền lực Nhà nước để điều
chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người [38].
Vậy, chủ thể QLNN là các cá nhân hay tổ chức mang quyền lực Nhà nước
tác động tới đối tượng quản lý. Còn đối tượng QLNN là tồn bộ cơng dân Việt
Nam và những người khơng phải là cơng dân Việt Nam đang sống, làm việc trên
lãnh thổ Việt Nam cùng tồn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ các khái niệm quản lý nhà nước như trên, khái niệm quản lý nhà nước
đối với tơn giáo cũng được hiểu theo hai nghĩa, rộng và hẹp.
Nghĩa rộng: Đó là q trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo qui định của pháp luật để tác động,
điều chỉnh, hướng các q trình tơn giáo và hành vi hoạt động tơn giáo của tổ chức,
cá nhân tơn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể quản lý.
Nghĩa hẹp: Đó là q trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và UBND các cấp) để
14
điều chỉnh các q trình tơn giáo và mọi hành vi hoạt động tơn giáo của tổ chức, cá
nhân tơn giáo diễn ra theo đúng qui định của pháp luật.
Theo đó, QLNN đối với tơn giáo ở cả 2 nghĩa rộng, hẹp, đều tập trung,
trước hết và chủ yếu là quản lý các “hoạt động tơn giáo”. Cụ thể hơn, đó là các
hoạt động tơn giáo liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Hoạt động đó là gì? Về việc này, tại khoản 5, điều 3 Pháp lệnh tín
ngưỡng, tơn giáo đã nêu: “Hoạt động tơn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý,
giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tơn giáo”[77, tr.2].
Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là truyền đạo) là việc tun truyền
những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ tơn giáo. Thơng qua hoạt động truyền đạo,
niềm tin tơn giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ của tơn giáo được các tín đồ
thực hiện. Còn người chưa phải là tín đồ, hoạt động truyền đạo giúp họ hiểu, tin
và theo tơn giáo. Vậy, hoạt động truyền đạo chính là để củng cố và phát triển tín
đồ. Tất nhiên, việc truyền đạo phải tn thủ các quy định của pháp luật và nội
dung, phương pháp truyền đạo phải đúng với giáo lý của tơn giáo đó.
Thực hành giáo luật, lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín đồ,
chức sắc, nhà tu hành tơn giáo thể hiện sự tn thủ nghiêm ngặt những quy định,
phép tắc, thoả mãn đức tin tơn giáo của cá nhân hay cộng đồng tín đồ.
Hoạt động quản lý tơn giáo là các tổ chức, giáo hội tơn giáo thực hiện các
quy định của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tơn giáo, đảm
bảo duy trì trật tự, hoạt động trong tổ chức tơn giáo.
Trong các hoạt động đó, việc phân định ranh giới giữa hoạt động truyền đạo
với hoạt động hành đạo cũng chỉ là tương đối, có khơng ít trường hợp trong hoạt
động hành đạo có hoạt động truyền đạo.
Từ đó chúng ta thấy, chủ thể QLNN về tơn giáo nếu theo nghĩa rộng của
khái niệm, thì đó là các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống lập pháp, hành pháp và
tư pháp; còn theo nghĩa hẹp, nó chỉ gồm các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống
hành pháp các cấp.
15
Còn khách thể QLNN đối với tơn giáo, đó là hoạt động tơn giáo của các tổ
chức tơn giáo, của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành. Là cơng dân Việt Nam, tín đồ,
chức sắc tơn giáo, nhà tu hành vừa mang những đặc điểm chung của người Việt
Nam, nhưng đồng thời cũng có những nét đặc trưng riêng của người có đạo.
Chúng tơi, trong luận văn này thường dùng khái niệm “QLNN đối với tơn
giáo”, hoặc “QLNN về tơn giáo”, khi đó được hiểu là “QLNN đối với các hoạt
động tơn giáo”.
Theo Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo, tín đồ, đó là những người tin theo một
tơn giáo và được tổ chức tơn giáo thừa nhận. Chức sắc tơn giáo là tín đồ có chức
vụ, phẩm sắc trong tơn giáo. Còn nhà tu hành, đó là tín đồ tự nguyện thực hiện
thường xun nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật của tơn giáo mà mình tin theo.
[77, tr.2]. Người làm cơng tác QLNN đối với tơn giáo, với họ, có một đòi hỏi bắt
buộc là phải nắm vững về đặc điểm của tín đồ, chức sắc các tơn giáo, với tư cách
là khách thể QLNN.
Ở nước ta, tín đồ tơn giáo có đặc điểm là: Đa số họ là nơng dân, vốn có bản
chất cần cù lao động, có lòng u nước nồng nàn, căm thù kẻ xâm lược và tầng
lớp bóc lột. Song bên cạnh đó, do cả vơ thức và ý thức, một số tín đồ hoạt động
tơn giáo chưa tn thủ pháp luật, tai hại hơn, bị các thế lực thù địch lợi dụng, nghe
theo kẻ xấu tham gia vào các vụ việc phức tạp, điểm nóng tơn giáo. Một đặc điểm
khác là, trong mỗi tín đồ đều có sự thống nhất (nhưng khơng đồng nhất) giữa mặt
cơng dân và mặt tín đồ. Là cơng dân, họ có mọi quyền và nghĩa vụ đối với nhà
nước như mọi cơng dân khác. Là người có tín ngưỡng tơn giáo, họ có niềm tin ở
Chúa, Phật..., có quyền lợi và trách nhiệm đối với giáo hội. Đây chính là đặc điểm
quan trọng cần phải nắm vững.
Còn chức sắc, nhà tu hành tơn giáo cũng có những đặc điểm chung của một
tín đồ, song họ còn có các đặc điểm riêng. Đó là: Họ là những người được tổ chức
tơn giáo lựa chọn, đào tạo cơ bản, nên có năng lực quản đạo và trình độ thần học
cao; được tổ chức tơn giáo phong chức, phong phẩm. Họ đại diện ở những mức
16
độ khác nhau cho các tổ chức tơn giáo. Họ vừa chăn dắt tín đồ, vừa quản lý nền
hành chính đạo theo thẩm quyền. Trong quan hệ với tín đồ, họ là những người rất
gần gũi, nắm bắt kịp thời tâm tự, nguyện vọng của tín đồ. Như thế, họ có vị trí,
vai trò và ảnh hưởng rất lớn, rất sâu sắc trong tín đồ, được tín đồ u q, trân
trọng và bảo vệ.
Tiếp nữa, người làm cơng tác quản lý nhà nước về tơn giáo cũng phải nắm
vững đặc điểm của tổ chức tơn giáo. Đó là: Tổ chức tơn giáo điều hành các hoạt
động tơn giáo; đại diện cho tín đồ trong quan hệ với Nhà nước và với các tổ chức
khác có liên quan. Mỗi tơn giáo có bộ máy tổ chức riêng, hoạt động theo hiến
chương, điều lệ của mình. Các tơn giáo có tư cách pháp nhân đều thể hiện đường
hướng hành đạo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Đa số các tổ chức tơn giáo có
liên hệ đồng đạo với tổ chức tơn giáo nước ngồi.
Ngồi ra, khách thể QLNN về tơn giáo còn có cả cơ sở vật chất phục vụ các
sinh hoạt tơn giáo. Trong đó, cơ sở thờ tự khơng đơn giản chỉ là một thực thể vật
chất, mà còn bao hàm ý nghĩa thiêng liêng, hội họp, văn hóa... Còn đồ dùng việc
đạo như kinh sách, tượng thờ, tranh ảnh, hồnh phi, câu đối, lư hương, chng mõ,
nhạc cụ,…mỗi thứ có chức năng, cơng dụng riêng trong sinh hoạt tơn giáo, nhưng
đều có đặc điểm là có giá trị vật chất và có ý nghĩa biểu đạt. Ngồi ra, phục vụ
cho sinh hoạt tơn giáo cộng đồng còn có vườn hoa, trường học, nhà dòng, cơ sở từ
thiện, nhà trẻ, bệnh xá,… Nó là tài sản của giáo hội và là nơi diễn ra các hoạt
động tơn giáo, được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giao cho
tổ chức tơn giáo quản lý.
Như vậy, việc nắm chắc những đặc điểm của khách thể quản lý là một u
cầu tiên quyết đối với chủ thể quản lý, giúp cho cơng tác QLNN về tơn giáo có
hiệu lực mạnh và hiệu quả cao.
Một vấn đề khác cũng cần nhận thức rõ, đó là vấn đề pháp nhân và thể nhân
tơn giáo. Pháp nhân tơn giáo, đó là bộ máy tổ chức tơn giáo đã được Nhà nước
17
cơng nhận. Còn thể nhân tơn giáo, đó là cá nhân tơn giáo (tín đồ) được tổ chức tơn giáo
cơng nhận.
1.1.2.2. Tính tất yếu tăng cường QLNN đối với tơn giáo
Vì sao phải tăng cường cơng tác QLNN đối với tơn giáo, việc này được xuất
phát từ các lý do khách quan và cơ bản.
Thứ nhất, hoạt động tơn giáo có liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, do đó, với chức năng quản lý xã hội của mình, để đảm bảo cho xã hội
ổn định, phát triển bình thường, tất yếu Nhà nước phải tăng cường quản lý các
hoạt động tơn giáo.
Thứ hai, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo diễn ra trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó có đời sống tơn giáo, vậy để đường lối, chính
sách, pháp luật được hiện thực hố, để đồng bào có và khơng có tơn giáo đồn kết
trong khối đại đồn kết tồn dân tộc, tạo động lực cho sự thành cơng của cơng
cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố, Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt
động tơn giáo.
Thứ ba, các thế lực thù địch ln tìm mọi cách lợi dụng tơn giáo hống phá
cách mạng, vậy để đập tan âm mưu đó và để đồng bào lương giáo tích cực tham
gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tất yếu Nhà nước phải tăng cường quản lý các
hoạt động tơn giáo.
Thứ tư, Việt Nam mở cửa, hội nhập để phát triển, theo đó, các thế lực thù địch
cũng thơng qua con đường hợp tác, liên doanh, du lịch... thâm nhập vào những vùng
nhạy cảm về tơn giáo, mua chuộc một số chức sắc, tín đồ tơn giáo, vậy để hội nhập
quốc tế có nhiều thành cơng, Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt động
tơn giáo.
1.1.2.3. Mục tiêu, ngun tắc và nội dung của QLNN về tơn giáo
Nội dung cơ bản của QLNN về tơn giáo được ghi nhận tại Pháp lệnh tín
ngưỡng, tơn giáo và được cụ thể hố tại Nghị định số 22 của Chính phủ, hướng
18
dẫn thực hiện Pháp lệnh trên. Còn trước Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo, Nhà nước
ta mới chỉ có Nghị định số 69 (năm 1991), Quy định về các hoạt động tơn giáo, và
Nghị định số 26 (năm 1999), Về các hoạt động tơn giáo. Như vậy, cho đến thời
điểm này, cơng cụ trực tiếp cho QLNN về tơn giáo chính là Pháp lệnh tín ngưỡng,
tơn giáo, còn luật thì chưa có.
Vì thế vừa qua tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng, ở nội
dung tơn giáo, Báo cáo chính trị đã nêu: “Tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật
về tín ngưỡng, tơn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị
văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tơn giáo; động viên các tổ chức tơn giáo, chức
sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho cơng cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tơn giáo
sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tơn giáo đã được nhà nước
cơng nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên
quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để mê hoặc, chia
rẽ, phá hoại khối đồn kết dân tộc” [33, tr.245].
Còn trong Cương lĩnh xây dựng đất nước bổ sung, phát triển, năm 2011,
khẳng định: “Tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và khơng tín
ngưỡng, tơn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý
nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tơn giáo và lợi dụng tín
ngưỡng tơn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” [33, tr.81].
Theo đó, quan điểm về vấn đề tơn giáo tại đây có những điểm mới là “Tiếp
tục hồn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo phù hợp với quan
điểm của Đảng”; “quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tơn giáo sinh
hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tơn giáo đã được nhà nước cơng
nhận, đúng quy định của pháp luật”.
Từ đó, cơng tác QLNN về tơn giáo, từ mục tiêu, ngun tắc và nội dung cho
đến phương pháp, cần phải được xác định rõ và bổ sung cho phù hợp với quan
điểm của Đảng. Về mục tiêu, theo chúng tơi, đó là: