Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.5 MB, 79 trang )
phân bổ vốn đầu tư theo hướng cầu, tức là chỉ đầu tư đà( tạo
những nghề xã hội cần.
Thứ hai, về xây diùig chiến lược định hướng, quy hoạct, kê
hoạch đầu tư phát triển đào tạo nghề
Trong điều kiện nước ta chuyển sang nền KTTT có sự ;uản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiệi hội
nhập sâu rộng vào khu vực và quốc tế. Nền kinh tế đang tíd cực
chuyển sang nền KTTT, cho đến nay các nước ASEAN đã :ơng
nhận Việt Nam có nền KTTT đầy đủ. Nhưng quá trình đổi mới
QLNN về đầu tư phát triển đào tạo nghề chưa theo kịp xã hộ hóa
đào tạo nghề. Còn một số tồn tại chủ yếu sau:
Chiến lược định hướng chưa xác định rõ mô hình đà< tạo
nghề trong KTTT làm căn cứ cho định hướng đầu tư, chưa tio sự
cạnh tranh cần thiết, nhất là cạnh tranh về quy mô, chất lrợng
dịch vụ đào tạo, chi phí đào tạo và sự cạnh tranh cần thiết :hác
để tăng đầu tư phát triển đào tạo nghề. Chưa có chiến lược lịnh
hướng đầu tư vào dịch vụ đào tạo nghề vì mục đích lợi nhuậi và
khơng vì mục đích lợi nhuận.
Chưa có những chiến lược, tầm nhìn dài hạn trên 20 lăm.
Trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các nịành,
địa phương chưa rõ chiến lược đầu tư phát triển đào tạo rghề.
Chiến lược định hướng đầu tư NSNN phát triển đào tạo nghểmới
đề ra ưu tiên đầu tư vào cơng trình trọng điểm, cho vùng khó
khăn v.v..., nhưng chưa định hướng rõ đầu tư trong gian ioạn
nào, ngành nghề gì, đối tượng nào, chiếm tỷ lệ bao nhiêu tong
ngân sách, trong đầu tư cho giáo dục, và ngay trong đầu tưohát
triển đào tạo nghề, bằng ngân sách trung ương hay ngân sáci địa
phương, tỷ lệ giữa ngân sách trung ương hay ngân sách địa phiơng.
140
Đặc biệt định hướng đầu tư NSNN phát triển đào tạo nghề cần
phải chiếm trên 50% hay dưới 50% hay chỉ cần giữ vị trí quan
trọng trong tổng sô' vốn đầu tư phát triển đào tạo nghề.
Việc quy hoạch đầu tư phát triển đào tạo nghề ở tầm quốc
gia mới chỉ đưa ra số vốn cần có, cơ cấu nguồn vốn, nhưng chưa
đưa ra quy hoạch cụ thể cho tỉnh, ngành cần đầu tư bao nhiêu,
đáu tư vào loại hình trường, lớp nào, nguồn vốn lấy từ đâu, từng
giai đoạn cụ thể. Đặc biệt các địa phương khi quy hoạch được
duyệt, thường do địa phương tự xây dựng, chưa được phản biện,
thẩm định của Tổng cục Dạy nghề dẫn đến chưa đảm bảo tính
quy hoạch tổng thể.
Kế hoạch xây dựng còn chậm, thường cuối kỳ kế hoạch mới
được xây dựng và duyệt kế hoạch kỳ sau. Trong kế hoạch, chưa
có nhiệm vụ cụ thể cho địa phương, ngành, dẫn đến tính kế
hoạch và khả năng thực thi khơng cao.
Thứ ba, vê chính sách, pháp luật đầu tư phát triển đào tạo nghề
Chính sách, pháp luật còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa tạo ra
sự chuyển biến căn bản vể đầu tư phát triển đào tạo nghề.
Việc ban hành các văn bản pháp quy dưới luật chưa kịp thời,
dẫn đến nhiều chủ trương tuy đã được đưa ra, nhưng thiếu chính
sách và cơ sở pháp lý, gây khó khăn trở ngại lớn trong việc triển
khai thực hiện. Ví dụ như Luật Dạy nghề, sau nhiều năm tổ chức
đào tạo mới ban hành, nhưng hiện nay chưa hoàn thiện các nghị
định, thông tư hướng dẫn.
Một số văn bản pháp luật đã cũ, khơng còn phù hợp, nhưng
chưa được sửa đổi (như những quy định về thu học phí, định mức
chi phí cho một suất đào tạo), một số văn bản mới ban hành còn
mang tính tạm thời.
141
Một số văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư chưa có chế tài
thực hiện rõ ràng, ví dụ như tình hình báo cáo tài chính của các
cơ sở dạy nghề, nhất là các cơ sở dạy nghề ngồi cơng lập, chưa
thực hiện đúng quy định, nhưng chưa có chế tài đủ mạnh để yêu
cầu thực hiện.
Một số văn bản pháp luật đối với đầu tư phát triển đào tạo
nghề còn sử dụng các văn bản chung vể đầu tư, chưa được cụ thể
trong lĩnh vực đào tạo nghề. Phần nhiều văn bản pháp luật đối
với đầu tư phát triển đào tạo nghề còn quy định mang tính định
hướng, hoặc các quy định khung, các nguyên tắc cơ bản, chưa
thể hiện được tính rõ ràng cụ thể, ví dụ như được ưu tiên, khuyến
khích đầu tư cụ thể thế nào, giảm bao nhiêu phần trăm thuế, ưu
tiên cấp hoặc cho thuê đất thế nào và đặc biệt là thủ tục để được
hưởng các quyền lợi ấy. Hoạt động đầu tư cho đào tạo nghề là
hoạt động đầu tư đặc thù, khác với đầu tư vào các hoạt động kinh
tế đơn thuần, có tác động trực tiếp đến người học và xã hội, dễ
gây hậu quả nghiêm trọng, khó bồi hồn, nhưng thực tế, đối với
đầu tư trong nước, chưa ban hành quy định (thông tư) hướng dẫn
hoạt động đầu tư, đối với đầu tư nước ngồi, đã có thơng tư
nhưng chưa quy định trách nhiệm chính, tồn diện, cụ thể của cơ
quan quản lý cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngồi khi đi vào
hoạt động.
Hệ thống các chính sách, pháp luật chưa tạo ra sự chuyển
biến căn bản về đầu tư phát triển đào tạo nghể. Cụ thể như:
Chưa tạo ra cơ chế khuyến khích các cở sở dạy nghề cạnh
tranh trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhất là
chuyển các cơ sở dạy nghề sang loại hình “dịch vụ đào tạo”,
mơ hình dạy nghể vì mục đích lợi nhuận và khơng vì mục đích
lợi nhuận.
142
- Quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở theo
quy định hiện nay mới chỉ được tự chủ về nhân sự, hạch toán thu
chi, chưa được trao quyền tự chủ về chỉ tiêu tuyển sinh, tự chịu
trách nhiệm về chất lượng sản phẩm đầu ra, điều đó dẫn đến các
cơ sở dạy nghề còn quản lý theo kiểu bao cấp.
- Ngân sách nhà nước căn cứ vào chỉ tiêu đào tạo được duyột
chứ không căn cứ vào số lượng đào tạo thực tế, số lượng sinh
viên tốt nghiệp. Ngân sách hỗ trợ cho đào tạo nghề ở các cơ sở
dạy nghề ngồi cơng lập chưa được đặt ra, trong khi đào tạo nghề
ngồi cơng lập đóng góp to lớn cho đào tạo nghề (chiếm khoảng
1/3 vể quy mô đào tạo). NSNN cấp cho cơ sở dạy nghề công lập
chưa chuyển theo hướng Nhà nước đặt hàng hoặc đấu thầu đào
tạo để tạo ra sự cạnh tranh ngay giữa các cơ sở công lập với nhau
và giữa công lập và ngồi cơng lập.
- Chính sách xây dụng đội ngũ giáo viên chưa rõ ràng,
chưa có chiến lược xây dựng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu
tăng tốc và nâng cao chất lượng dạy nghề. Điều đó dẫn đến đội
ngũ giáo viên còn thiếu trầm trọng, trình độ chưa đáp ứng được
yêu cầu.
- Chính sách cho các cơ sở dạy nghề ngồi cơng lập vay tín
dụng ưu đãi chưa thực sự khuyến khích, thủ tục vay quá chặt,
mức vay khơng nhiều, nhất là lãi suất vay còn cao, cho nên hạn
chế vay vốn để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trong khi hoạt
động đào tạo nghề thu hồi vốn chậm.
- Cấp đất cho các cở sở dạy nghề còn thực hiộn theo cơ chế
quản lý cũ. Việc bố trí đất để xây dựng cở sở dạy nghề ít được
quan tâm trong quy hoạch, thường có diện tích nhỏ, vị trí khơng
thuận lợi cho việc học tập, sinh hoạt, thực tập. Đối với các trường
143
dạy nghề cổng lập được Nhà nước giao quyền sử dụng, không
phải thuê đất, giá trị sử dụng đất đai thường khơng tính vào giá
trị tài sản, do đó việc tính hiệu quả đầu tư cho đào tạo nghề tại
các trường công lập chưa tính đả nguồn lực. Cơ chế cấp đất xây
dựng cơ sở dạy nghề còn phân biệt giữa cơng lập và ngồi cơng
lập. Cơ sở dạy nghề cơng lập được cấp đất ở vị trí thuận lợi, diện
tích lớn, được cấp ngân sách hàng năm, trong khi các cơ sở dạy
nghề ngoài cồng lập phải tự láy thu bù chi, không được cấp
NSNN, được cấp hoặc thuê đất ở vị trí khơng thuận lợi, diện tích
q nhỏ.
- Quy định thu và sử dụng học phí trong các cở sở dạy nghề
cơng lập còn cứng, đến nay đã tám năm khơng được sửa đổi, mức
quy định học phí của học sinh học nghề quá thấp, số lượng học
sinh được miễn, giảm học phí giữa các trường khơng đều nhau.
- Cấp học bổng chính sách, trợ cấp xã hội chỉ được thực hiện
tại các trường cơng lập, còn học sinh học nghề ỏ các trường
ngồi cơng lập khơng được thực hiện.
- Định mức chi cho đào tạo nghề được xây dựng từ năm
1989, đến nay đã lạc hậu nhưng chưa xây dựng lại.
- Nguồn vốn tự có của cơ sở dạy nghé còn nhỏ, mới chỉ đạt
khoảng 3%, dẫn đến khó khăn, nhất là cho cơ sở dạy nghề khi
chuyển sang cơ chế tự chủ về tài chính, theo mơ hình dịch vụ đào
tạo, tự hạch toán, tự cân đối thu chi.
Thứ tư, vé các biện pháp huy dộng các nguồn vòn đầu tư
phát triển đào tạo nghề
Hiện nay, phong trào học nghề của các tầng lớp xã hội chưa
mạnh, chưa thường xuyên, sâu rộng, nhưng những biện pháp
tuyên truyền chủ yếu giao cho các đoàn thể, chưa thực sự là
144
nhiệm vụ của chính quyền các cấp. Đặc biệt chưa tuyên truyền
định hướng nghề nghiệp, tư vấn nghể cho học sinh phổ thông.
Những thông tin về đào tạo nghề cho học sinh, lao động nông
thôn và công nhân trực tiếp sản xuất còn thiếu.
Mơi trường pháp luật còn thiếu, chưa đồng bộ, quy định còn
quá chung, chủ yếu là các nguyên tắc, chưa thực sự thu hút các
nguồn vốn đầu tư từ người học và các tổ chức, cá nhân trong xã
hội. Trách nhiệm xã hội chưa cao trong việc đầu tư phát triển đào
tạo nghề, người sử dụng lao động chưa tự giác làm hết trách
nhiệm với xã hội trong việc đào tạo nghề.
Q trình xã hội hóa đầu tư phát triển đào tạo nghề còn
chậm so với tiềm năng, mức độ phát triển xã hội hóa chưa đồng
đều, chủ yếu tập trung ở thành phố, vùng Đồng bằng sông Hồng
và Dơng Nam Bộ, kinh phí đầu tư chủ yếu từ NSNN. Nhà nước
vẫn sử dụng chính sách bao cấp qua chế độ phí thấp cho tất cả
mọi người, tức là cấp ngân sách cho cơ sở dạy nghề công lập và
tại cơ sở này, người giàu cũng được cấp kinh phí (cấp theo chỉ
tiêu đào tạo).
Việc huy động vốn từ nước ngồi chủ yếu là các nguồn vốn
viện trợ khơng hoàn lại và các khoản vốn vay ODA, chưa thực sự
có sự đầu tư trực tiếp của nước ngồi mở các cơ sở dạy nghề để
đào tạo nghề cho xã hội.
Thứ nám, việc tổ chức, điêu hành thiếu cương quyết, công
tác kiểm tra, giám sát chưa chặt chẽ, thường xuyên
Trong việc thực hiện quy hoạch, sắp xếp các cơ sở dạy nghề
còn chỉ đạo chưa cương quyết, dẫn đến các cơ sở dạy nghề được
hình thành còn mang tính tự phát, mất cân đối giữa các vùng,
miền, làm giảm hiệu quả đầu tư, gây lãng phí chi phí xã hội.
145
Đầu tư còn mang nặng bao cấp, vẫn thực hiện cơ chế “xin,
cho” trong phân bổ NSNN, nên địa phương, ngành xin được kinh
phí từ ngân sách dù ít hay nhiều đểu thành lập trường hoặc trung
tâm dạy nghề. Từ đó dẫn đến việc đầu tư còn dàn trải, manh
múa, kém hiệu quả, quy mô đào tạo nhỏ bé.
Công việc kiểm tốn khơng đủ lực lượng để thực hiện kiểm
tốn hàng năm đối với các cơ sở dạy nghề, chủ yếu tập trung kiểm
toán cơ sở dạy nghề lớn, hoặc các dự án lớn. Công tác kiểm định
chất lượng và thông tin chất lượng các cơ sở dạy nghề chưa được
quan tâm đúng mức. Công tác kiểm tra, giám sát chưa thường
xuyên, chủ yếu kiểm tra, giám sát nguồn vốn đầu tư từ Nhà nước,
việc thực hiện “hậu kiểm” chưa được thực hiện. Chế độ thông tin,
báo cáo và công khai hóa hoạt động đầu tư thực hiện chưa nghiêm
túc, đặc biệt là các cơ sở dạy nghề ngồi cơng lập.
Thứ sáu, về hoàn thiện bộ máy tổ chức, cán bộ quản lý nhà
nước về đầu tư phát triển dào tạo nghề
Bộ máy tổ chức, cán bộ QLNN về đào tạo nghề và đầu tư
phát triển đào tạo nghề thiếu ổn định, chức năng, nhiệm vụ chưa
rõ ràng. Chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan QLNN về đào
tạo nghề từ trung ương đến địa phương còn bị chồng chéo, nhiều
chỗ không rõ ràng, nhất là mối quan hộ giữa ngành và lãnh thổ
trong việc quản lý nhân sự, ngân sách đào tạo. Đặc biệt chưa
hình thành được hệ thống phàn cấp quản lý hợp lý - yếu tố cơ
bản đảm bảo cho sự hoạt động có hiệu quả cho từng cơ quan,
đơn vị và cá nhân thực hiên. Mặt khác, ở nhiều bộ, ngành trung
ương và địa phương sự phối hợp về thông tin chưa kịp thời, phối
hợp quản lý và chỉ đạo còn rời rạc, dẫn đến kém hiệu quả.
Ở Trung ương, cơ chế phối hợp trong quản lý nguồn vốn
đầu tư xây dựng cơ bản, chi thường xuyên giữa Bộ Kế hoạch và
146
Đầu tư với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (Tổng cục Dạy
nghề) chưa được xây dựng và thực hiện có hiệu quả, dẫn đến ảnh
hưởng lớn đến chiến lược, kế hoạch đầu tư, thực hiện cân đối
trong đầu tư và đầu tư có trọng điểm.
Hệ thống các cơ quan QLNN về đào tạo nghề tại địa
phương không đủ lực lượng và kinh nghiệm chuyên sâu về
quản lý đầu tư. Kinh phí từ ngân sách địa phương cấp cho đào
tạo nghề chịu sự quản lý trực tiếp của uỷ ban nhân dân cùng
cấp, nên hình thành hai nguồn vốn ngân sách (ngân sách trung
ương, ngân sách địa phương) cấp cho một cơ sở dạy nghề, nếu
khơng có sự phối hợp tốt giữa cơ quan QLNN ở trung ương với
cơ quan QLNN ở địa phương sẽ dẫn đến chồng chéo, phá vỡ
quy hoạch.
Việc thành lập Tổng cục Dạy nghề trực thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thuận lợi cho gắn đào tạo với thực hiện
chính sách xã hội, việc làm với người lao động, gắn thông tin thị
trường lao động với thị trường đào tạo nghề, nhưng khó khăn
trong thống nhất QLNN về đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo,
trong đó có đào tạo nghề. Trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện
nay tồn tại nhiều trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp có đào tạo nghé, ngay cả các trường dạy nghề cũng thực
hiện đào tạo nghề bậc cao, đào tạo trung cấp nghề và cao đẳng
nghề, như vậy một cơ sở đào tạo chịu quản lý nhà nước của hai
bộ và khi đẩu tư thì khó phân biệt giữa đầu tư cho cấp học nào,
thực hiện quy định về đầu tư của bộ nào (thực hiện quy định của
Bộ Giáo dục và Đào tạo hay Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội), nhất là việc nghiên cứu thực hiện liên thông giữa các cấp
đào tạo.
147
Nguyên nhân hạn chế: Nguyên nhân chủ quan, trực tiếp
dẫn đến hạn chế quản lý nhà nước về đầu tư phát triển đào tạo
nghề là:
Thứ nhất, mơi trườììg đấu tư phát triển đào tạo nghề chưa
thực sự hấp dần nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước
Đối với các doanh nghiệp, mục tiêu hàng* đầu của doanh
nghiệp là lợi nhuận, đầu tư cho đào tạo nghề chưa trở thành dịch
vụ thu lợi nhuận cao nên các doanh nghiệp chưa thiết tha với đầu
tư xây dựng trường, lớp dạy nghề. Do thị trường lao động cung
lớn hơn cầu, số lao động thất nghiệp năm 2006 chiếm 5,15% lực
lượng lao động, hơn nữa, quy mơ lao động trung bình một doanh
nghiệp q nhỏ khoảng 50 lao động [4, tr.9], doanh nghiệp
không phải hoàn vốn đào tạo cho cơ sở dạy nghề, nên các doanh
nghiệp chỉ tuyển lao động đã có nghề, khơng muốn đầu tư cho
đào tạo nghề phục vụ yêu cầu nhân lực của doanh nghiệp. Hiện
nay có một số doanh nghiệp tham gia đào tạo nhưng thường là
doanh nghiệp lớn.
Đối với các tổ chức chính trị - xã hội, hoạt động cũng từ
NSNN là chính, nên đầu tư cho phát triển đào tạo nghề cũng dựa
trên nguồn kinh phí Nhà nước cấp phát, chỉ khác là NSNN giao
cho các tổ chức chính trị - xã hội đào tạo nghề cho phù hợp với
đối tượng vận động, phát huy cơ sở vật chất sẵn có và đội ngũ
cán bộ quản lý, mạng lưới hoạt động của các tổ chức đó.
Đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài, chủ yếu nguồn vốn
đầu tư là các khoản viện trợ khơng hồn lại hoặc cho vay theo
dạng ODA (đây là khoản đầu tư có giới hạn), còn hình thức
doanh nghiệp, cá nhân nước ngồi đầu tư trực tiếp thì mơi trường
chưa thực sự hấp dẫn.
148
Đối với người học, đẩu tư cho đào tạo nghề khơng phải là
hướng ưu tiên của các gia đình và bản thân người học.
Thứ hai, cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư phát triển
đào tạo nghề chậm đổi mới
Đầu tư phát triển đào tạo nghề trong quá trình chuyển đổi
sang nền KTTT là vấn đề mới đang tiếp tục nghiên cứu, thử
nghiệm và hoàn chỉnh. Thực chất khi bàn về đổi mới đầu tư cho
giáo dục nói chung, đào tạo nghề nói riêng mới được bàn luận
nhiều từ năm 1996 đến nay. Những vấn đề mới về mơ hình đào
tạo nghề tròng nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đang trong thời gian nghiên cứu. Lĩnh
vực đầu tư cho đào tạo nghề là lĩnh vực đầu tư có đặc thù riêng,
nó khác với đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, dịch vụ khác, nó có tác
động đến nhiều đối tượng trong xã hội cho nên rất cần thận trọng
trong từng bước đi.
Tuy nhiên, về chủ quan, mặc dù nền kinh tế đã có sự chuyển
biến mạnh mẽ sang cơ chế thị trường, nhưng cơ chế, chính sách
đầu tư phát triển đào tạo nghề vẫn còn tư duy và tổ chức thực hiện
theo thói quen bao cấp, về cơ bản đào tạo nghề vẫn theo “hướng
cung”, tức là thiếu dự báo về thị trường đào tạo nghề, việc học
nghề còn theo ý thích chủ quan, việc dạy nghề vẫn có điều kiộn
như thế nào thì dạy thê' đó, dẫn đến chưa đáp ứng yêu cầu thị
trưcmg lao động, nhất nhu cầu lao động có chất lượng cao.
Việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cơ sở dạy
nghề mới dừng lại ở việc trao quyền tự chủ về tài chính, nhân sự,
còn nhiều vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm về chỉ tiêu đào tạo,
chất lượng đào tạo chưa được thực hiện.
149
Nhiều vấn đề về lý luận phát triển đào tạo nghề trong giai
đoạn mới chưa quan tâm đúng mức, nhất là chuyển đổi sang cơ
chế “dịch vụ đào tạo”, hay cơ chê “thị trường đào tạo nghề" có
sự quản lý của Nhà nước.
Hàng loạt các chính sách chậm sửa đổi, bổ sung và cần ban
hành mới. Trong các vãn bản pháp luật chưa quy định một cách
cụ thể, thiết thực và có tính hấp dản, rõ ràng, minh bạch như:
Chính sách đầu tư từ NSNN; chính sách phân luồng trong hộ
thống giáo dục quốc dân và liên thơng giữa các cấp dạy nghề;
chính sách đầu tư cho đào tạo nghề; chính sách sử dụng lao động
qua đào tạo; chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia đào tạo nghề; chính sách thu hút đầu tư nước ngồi cho
đào tạo nghề.
Thứ ba, q trình tổ chức, điều hành còn thiếu cư(Jng quyết
Việc triển khai thực hiện các quy hoạch, kế hoạch còn chậm,
nhất là triển khai đầu tư xây dựng các trường chất lượng cao,
trường trọng điểm, trung tâm dạy nghề cấp huyện và cho các
vùng nông thôn, vùng Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên. Hiện nay,
về cơ bản pháp luật đã đưa ra được các khung pháp lý, các
nguyên tắc cần thiết để điều chỉnh hoạt động đầu tư phát triển
đào tạo nghề, nhưng trong quá trình điều hành chưa kiên quyết,
dẫn đến đầu tư còn manh mún, dàn trải, cơ cấu đầu tư còn nhiều
bất hợp lý, nhất là mất cân đối về đầu tư giữa các vùng, giữa khu
vực thành thị và khu vực nồng thôn.
Thứ tư, hệ thống tổ chức bộ máy, cán bộ quản lý nhà nước
chưa đáp ứng yêu cầu
Từ năm 1998 đến nay, cơ quan QLNN về đào tạo nghề được
củng cố lại, nhưng đội ngũ cán bộ còn quá mỏng, khó khăn
150