Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.9 KB, 40 trang )
Nghệ thuật Ai Cập luôn hướng tới sự vĩnh hằng, sự trường tồn. Điều này thể hiện
trong kiến trúc, điêu khắc và bích hoạ. Các tác phẩm nghệ thuật của Ai Cập được làm
bằng chất liệu bền vững và chúng tồn tại cho tới tận ngày hôm nay. Quan niệm, lòng tin
vào sự bất diệt của linh hồn đã chi phối mạnh mẽ tới nghệ thuật tạo hình và tạo ra những
tác phẩm nghệ thuật bất hủ, xứng đáng là một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại.
Nghệ thuật Ai Cập mang nặng tính chất tôn giáo. Thông qua các phần còn lại ta
thấy các nghệ sĩ Ai Cập đã rất ưu tiên đề tài tôn giáo, tín ngưỡng.
Bị ảnh hưởng của thần thoại, tôn giáo họ đã sáng tác ra nhiều hình tượng thần bí,
siêu thực như hình tượng các vị thần đầu thú mình người, tượng nhân sư đầu người mình
sư tử. Chính đặc điểm thứ nhất đã tạo ra tiền đề nảy sinh đặc điểm thứ hai.
Những ước lệ tạo hình cổ sơ đã chi phối nghệ thuật Ai Cập trong hai lĩnh vực điêu
khắc (phù điêu) và bích hoạ. Các hình tượng phù điêu và bích hoạ Ai Cập đã được thể
hiện hoặc nhìn chính diện nghiêm trang, ngay ngắn hoặc là sự kết hợp của đầu mặt
nghiêng, thân thẳng chân nghiêng. Hai bàn chân nhìn nghiêng và được nhìn từ phía ngón
cái là một đặc điểm đặc biệt trong các hình tượng phù điêu và bích hoạ Ai Cập.
Sở dĩ
người Ai Cập tạo hình như vậy vì họ quan niệm về sự toàn vẹn của hình tượng. Họ muốn
trên một hình tượng nhưng có thể nhìn thấy nhân vật ở tất cả các hướng. Mặt khác các
hướng chọn để diễn tả phải là hướng mà các đặc điểm được thể hiện rõ đặc trưng nhất. Ví
dụ con mắt nhìn nghiêng không cho thấy rõ “mắt” bằng con mắt nhìn thẳng; Bàn chân
nhìn từ phía ngón cái và nghiêng có đặc điểm hơn, … Như vậy người Ai Cập đã rất khéo
chọn lựa và khéo sắp xếp. Nhìn thoáng qua ta thấy hình vẽ Ai Cập có dạng vặn và nhiều
chi tiết tưởng như không hợp lý phải nghiên cứu kỹ mới thấy sự sáng tạo và tài năng của
người Ai Cập khi tạo hình. Như vậy mới có cái nhìn đúng đắng về giá trị của nghệ thuật
Ai Cập.
Trong nghệ thuật Ai Cập, các loại hình nghệ thuật như kiến trúc, điêu khắc, bích
hoạ luôn gắn bó với nhau. Nghệ thuật Ai Cập là nghệ thuật tổng hợp trong đó kiến trúc
phát triển sớm nhất và mạnh nhất. Điêu khắc và tranh vẽ gắn với kiến trúc. Tất cả đều
thống nhất phong cách và hoà hợp trong một tổng thể hoàn chỉnh.Tất cả những đặc điểm
trên đã kết hợp nhuần nhuyễn với nhau tạo ra sự độc đáo, riêng biệt cho nghệ thuật tạo
hình Ai Cập. Tuy nó bị chi phối bởi tôn giáo, bởi ý tưởng về sự vĩnh hằng, hay siêu hình
thần bí thì nghệ thuật Ai Cập vẫn rất phong phú về thể loại.
Những ước lệ tạo hình cổ sơ mặc dù theo các nghệ sĩ suốt trong quá trình sáng tạo
và phát triển. Nhưng không vì thế mà nghệ thuật Ai Cập đơn điệu và không thay đổi. Trái
lại phong cách nghệ thuật Ai Cập mặc dù vẫn thống nhất nhưng vẫn có sự chuyển biến
17
phong cách qua các thời kỳ từ cổ đến trung và tân vương quốc. Có một điều chắc chắn
rằng, nghệ thuật Ai Cập thống nhất và phát triển theo một hướng đi riêng, có thay đổi
song vẫn giữ được đặc điểm, quan niệm tạo hình của mình.
Nghệ thuật Ai Cập là một nền nghệ thuật sáng tạo, để lại nhiều thành tựu, kỳ quan
cho thế giới và mang đậm sắc thái dần .
Ai cập xứng đáng là cái nôi đầu tiên của văn minh nhân loại như người ta vẫn đánh
giá từ nhiều thế kỷ trước.
Nữ hoàng Ne phititi
18
BÀI 3: MỸ THUẬT HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Khái quát về mỹ thuật Hy Lạp cổ đại
Sau Ai Cập cổ đại, vào khoảng thế kỷ XVIII TCN, ở phía bên kia Địa Trung Hải,
Hy Lạp ra đời, lãnh thổ của nó bao gồm Hy Lạp ngày nay và các đảo thuộc biển Ê Giê và
vùng Tây Tiểu á. Hy Lạp không thuận lợi về nông nghiệp song lại tốt trong việc giao
thông trên biển. Với tài nguyên dồi dào đã tạo điều kiện cho Hy Lạp phát triển thủ công
nghiệp và ngoại thương. Nó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển nền văn minh Hy Lạp
trong đó có nghệ thuật tạo hình.
Cho đến tận ngày nay, khi nhắc đến Hy Lạp người ta sẽ nghĩ ngay đến đền thờ Pác
Tê Nông (Parthénon), đến các pho tượng trên biển của Hy Lạp như tượng người ném đĩa,
tượng vệ nữ Mi lô, … nghệ thuật Hy Lạp đã phát triển và để lại nhiều thành tựu vĩ đại.
Thành tựu của nghệ thuật tạo hình Hy Lạp vừa biểu hiện sự sáng tạo tuyệt vời của
người Hy Lạp vừa chứng tỏ đỉnh cao về sự mẫu mực của Hy Lạp về trí tuệ trong tạo hình.
Con người thời nay không chỉ khâm phục trước những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu của
Hy Lạp. Họ đã tìm thấy trong nền nghệ thuật cổ đại này một tư tưởng nhân văn cao
thượng, một nền nghệ thuật hiện thực, ca ngợi giá trị và vẻ đẹp của con người. Đây là cơ
sở để xây dựng một nền văn hoá mới, thấm đẫm những tư tưởng nhân văn.
Nhà nước Hy Lạp cổ đại là xã hội chiếm hữu nô lệ chứa đựng những tư tưởng dân
chủ tiến bộ, là Nhà nước thông bang, ở đó có hai vua với quyền lực như nhau, vừa là thủ
lĩnh quân sự, vừa là tăng lữ và người xử án. Chế độ xã hội ở đây là chế độ dân chủ chủ
nô, chế độ đó, mở đường cho các nhà khoa học, những nghệ sĩ, những công dân tự do này
được phát triển tài năng, trí sáng tạo. Điều này giúp nghệ thuật cũng như khoa học Hy
Lạp cổ đại phát triển mạnh.
Nghệ thuật Hy Lạp còn được nuôi dưỡng bằng một nguồn đất đặc biệt - nguồn thần
thoại Hy Lạp. Quan niệm của người Hy Lạp về thế giới thần linh giống như thế giới con
người. Đó là quan niệm “thần nhân đồng hình”. Quan niệm này chi phối tới việc xây cất
các công trình kiến trúc. Những câu chuyện gợi nguồn cảm hứng sáng tạo cho các nghệ sĩ
tạo hình. Họ tìm thấy ở đây chất thơ, chất cảm xúc, thúc đẩy họ sáng tạo ra những tác
phẩm nghệ thuật bất hủ, thấm đượm tinh thần nhân văn.
Năm 776 TCN thế vận hội lần đầu tiên tổ chức tại Hy Lạp. Phong trào rèn luyện
sức khoẻ để trở thành các chiến binh dũng mãnh đồng thời tạo ra những cơ thể đẹp đẽ cân
đối. Đó là nguồn mẫu hình lý tưởng cho các nghệ sĩ Hy Lạp nghiên cứu sáng tạo ra tỷ lệ
vàng cho hình tượng con người. Hội tụ tất cả những yếu tố trên là điều kiện tuyệt vời cho
19
sự phát triển của văn hoá, nghệ thuật Hy Lạp. Nghệ thuật Hy Lạp nhất là kiến trúc và điêu
khắc đã đạt tới đỉnh cao chỉ sau hơn 200 năm, từ thế kỷ VII đến V TCN.
2. Nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại
Trong đời sống của người Hy Lạp thời cổ đại, tôn giáo đóng vai trò quan
trọng. Họ thờ rất nhiều vị thần. Thể loại kiến trúc phát triển là kiến trúc đền thờ
gần như toàn thể các công trình xây dựng có giá trị nghệ thuật, to đẹp nhất thuộc
về tôn giáo. Kích thước đền thờ vừa phải, không quá lớn đồ sộ. Nó cũng giống
nghệ thuật kiến trúc Ai Cập ở chỗ kiến thức kiến trúc chính là kiến thức cột. Kiến
trúc Hy Lạp có 3 thức cột chính:
Thức Đôríc, thức Iônic, và thức Corinthian. Sự khác nhau giữa các thức cột này
được phân biệt bởi phần đầu cột và các khía rãnh.
Cột Đôríc có hai mươi khía rãnh khá rộng. Hai mươi bốn đôi khi là bốn tám khái
của cột Ioníc sâu hơn, khít hơn. Cột Đôríc ra đời sớm nhất và phát triển ở Pðloponnêse và
các khu dân cư ở miền Nam ý và đảo Sixin (Sicile).
Phong cách Iôníc thanh mảnh và duyên dáng hơn. Phần đầu cột được trang trí bằng
hình guột cột Đôríc Iônic Côranhtiêng trang trí. ở thời Hy Lạp hoá thức Cô ranh tiêng
được sử dụng nhiều. Phần đầu cột được trang trí bằng những hoạ tiết và cách điệu mềm
mại và trang nhã.
Đền thờ Pác-tê- non (Partenon) được khởi công trên đồi Acrôpôn (Acropolis) thờ
nữ thần Atêna (Athena): là đền thờ kết hợp hài hoà giữa sự khoẻ khoắn của thức Đô níc
và sự duyên dáng nhẹ nhàng của thức Iônic.
Đền Pác- tê- nông (Partenon)
Vẻ đẹp của Pác tê non thể hiện trong sự cân đối, hài hoà về tỷ lệ giữa các bộ phận
kiến trúc. Nó còn bộc lộ trong sự đơn giản, trang nhã của khối kiến trúc chủ yếu dựa trên
những đường thẳng với trang trí bằng các tác phẩm điêu khắc và phù điêu dạng trụ ngang.
Kiến trúc cân đối hài hoà của Pác tê non được trang điểm thêm đẹp đẽ, lộng lẫy bằng các
tác phẩm điêu khắc của Phi đi át và các học trò của ông. Tác giả của Pác tê non là Ichtinốt
và Can Li Crát.
20