Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 130 trang )
“quản” và “lý” tích hợp vào nhau, trong “quản” phải có “lý”, trong “lý” phải
có “quản”. “Quản” có nghĩa là “coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái ổn
định”, “lý” có nghĩa là “sửa sang, sắp xếp, đổi mới hệ, đƣa hệ vào thế phát
triển”; nếu “quản” tốt mà “lý” không tốt sẽ khiến cho hệ trì trệ, ngƣợc lại nếu
“lý” tốt mà “quản” không tốt thì khiến cho hệ rối ren, mất ổn định, không bền
vững. Nếu làm tốt hai quá trình “quản” và “lý” thì hệ sẽ duy trì ở trạng thái
cân bằng động : ổn định – thích ứng – tăng trƣởng – phát triển.[15]
Quản lý vừa là một khoa học vừa là nghệ thuật. Quản lý sử dụng tri
thức của nhiều môn khoa học tự nhiên và xã hội nhân văn khác nhau nhƣ toán
học, thống kê, kinh tế, tâm lý, xã hội học,... Ngƣời quản lý phải là ngƣời đƣợc
đào tạo về nghề quản lý, thạo kỹ năng quản lý, ngƣời quản lý phải có sự hài
hoà về “tầm nhìn”, “năng lực chuyên môn” và “năng lực liên nhân cách”.[15]
Trong một tổ chức, ngƣời quản lý đƣợc phân chia thành nhiều cấp bậc
nhƣ : ngƣời quản lý cấp cơ sở, ngƣời quản lý cấp trung gian, ngƣời quản lý
cấp cao, … Để tổ chức đạt tới mục đích đã định trƣớc, ngƣời quản lý cần phải
có những tác động tới tổ chức theo các quá trình : kế hoạch hoá – tổ chức –
chỉ đạo – kiểm tra trên cơ sở ra quyết định đúng đắn, có sự điều chỉnh linh
hoạt trong quá trình hành động và phải biết xử lý thông tin kịp thời.
Nhƣ vậy, khái niệm “quản lý”có thể khái quát nhƣ sau : Quản lý là sự
tác động có mục đích của con người tới nguồn nhân lực và các nguồn lực
khác để vận hành một bộ phận hoặc toàn bộ một tổ chức để tổ chức đó hoạt
động có hiệu quả và đạt đến mục đích đã đề ra.
1.1.2. Một số quan điểm về quản lý và quản lý giáo dục
Hoạt động quản lý ra đời từ sự phân công, hợp tác lao động trong tập
thể. Theo sự phát triển của xã hội loài ngƣời, trình độ quản lý của loài ngƣời
phát triển dần lên, ngày càng cao và có những đòi hỏi gắt gao hơn về năng lực
và trình độ tổ chức - điều hành.
13
Frederick Winslow Taylor (1856-1915), ngƣời đƣợc mệnh danh là
ngƣời cha của lý luận quản lý một cách khoa học, cho rằng “mục đích chủ yếu
của quản lý là làm cho chủ có thể giàu có đến mức tối đa và cũng có thể làm
cho thợ giàu có đến mức tối đa”[37, tr.36]. Nhƣng Taylor lại cho rằng, con
ngƣời có ác cảm với công việc và sẽ tìm cách trốn tránh nếu có thể đƣợc; rằng
động cơ thúc đẩy ngƣời công nhân làm việc tích cực chỉ là do họ muốn kiếm
đƣợc nhiều tiền hơn để thoả mãn nhu cầu của họ.
Trong khi đó, Douglas Mc George (1906-1964) lại cho rằng khi con
ngƣời bỏ sức ra để thực hiện một mục tiêu nào đó, "họ mong muốn nhận đƣợc
những điều mà việc hoàn thành mục tiêu ấy tạo ra, trong đó điều quan trọng
nhất không phải là tiền mà là quyền tự chủ, quyền đƣợc tôn trọng, quyền tự
mình thực hiện công việc. Sự thoả mãn những quyền đó sẽ thúc đẩy con
ngƣời cố gắng hoàn thành mục tiêu của tổ chức”[37, tr.144].
Kết hợp các quan điểm khác nhau của phƣơng Tây với những đặc trƣng
mang giá trị văn hoá và triết lý sống, William Ouchi – nhà nghiên cứu về lý
luận quản lý ngƣời Nhật nổi tiếng với Lý thuyết Z, đã cho rằng làm cho công
nhân quan tâm đến xí nghiệp là yếu tố mấu chốt để nâng cao năng suất lao
động; rằng năng suất lao động, sự tin cậy và sự khôn khéo trong quan hệ giữa
ngƣời với ngƣời cần phải đƣợc gắn kết chặt chẽ với nhau, và chỉ khi ba mặt
này gắn kết chặt chẽ với nhau thì mới có thể nâng cao năng suất lao động.
Chúng ta biết rằng, quá trình giáo
dục là một thể thống nhất toàn vẹn đƣợc
liên kết bằng các nhân tố : mục tiêu đào tạo
M
G
(ký hiệu là M), nội dung đào tạo (N),
phƣơng pháp đào tạo (P), lực lƣợng đào tạo
– ngƣời dạy (G), đối tƣợng đào tạo – ngƣời
T
K
N
P
Đ
học (T), môi trƣờng, điều kiện đào tạo (Đ)
(Hình 1.1 : Quá trình giáo dục)
14
và kiểm tra - đánh giá (K). Các nhân tố này liên kết với nhau, đƣợc duy trì và
phát triển nhờ vào sự quản lý.
Sự quản lý phải làm cho ba nhân tố mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo
và phƣơng pháp đào tạo gắn kết với nhau bởi chúng tuy là vô hình nhƣng
chúng là nền tảng của quá trình đào tạo. Dƣới tác động của hoạt động quản lý,
với thƣớc đo là các tiêu chí, tiêu chuẩn đã đƣợc đề ra thông qua nhân tố kiểm
tra - đánh giá, các nhân tố lực lƣợng đào tạo, đối tƣợng đào tạo, môi trƣờng và
điều kiện đào tạo vật chất hoá mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, phƣơng
pháp đào tạo làm cho đối tƣợng đào tạo (ngƣời học) có đƣợc chất lƣợng nhân
cách mới.[16]
Theo GS Nguyễn Ngọc Quang, quản lý giáo dục là hoạt động đa cấp,
bao hàm cả quản lý hệ thống giáo dục, quản lý các bộ phận của nó, đặc biệt là
trƣờng học. “Quản lý giáo dục (nói riêng là quản lý trƣờng học) là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
nhằm làm cho hệ vận hành theo đƣờng lối và nguyên lý giáo dục của Đảng,
thực hiện đƣợc các tính chất của nhà trƣờng XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm
hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đƣa hệ giáo dục tới mục tiêu
dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”.[28]
Nhƣ thế, quản lý giáo dục nói chung và quản lý nhà trƣờng nói riêng có
ba đối tƣợng quản lý cơ bản, là quản lý con ngƣời và các mối quan hệ liên
nhân cách; quản lý toàn bộ quá trình giáo dục và dạy học diễn ra trong nhà
trƣờng và các mối quan hệ giữa nhà trƣờng và gia đình học sinh và cộng đồng
xã hội; quản lý các điều kiện cơ sở vật chất, điều kiện dạy và học, ……
1.2. KHÁI NIỆM “TRƢỜNG ĐẠI HỌC”, “TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP”
1.2.1. Thế nào là trƣờng đại học ?
Hệ thống giáo dục quốc dân nƣớc ta bao gồm : giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục ĐH và sau ĐH. Giáo dục ĐH
15
bao gồm trình độ CĐ và trình độ ĐH.
Nghị định 43/2000/NĐ-CP ngày 30/8/2000 của Chính phủ đã quy định
: “Các loại trƣờng đại học gồm : các đại học, các trƣờng đại học, các học
viện”.
“Đại học là tên gọi của các trƣờng đa lĩnh vực và có nghiên cứu khoa
học. Trường đại học là tên gọi của các trƣờng thƣờng là đơn ngành hoặc đơn
lĩnh vực, hoặc đa ngành nhƣng trình độ thấp. Học viện là tên gọi loại trƣờng
đơn ngành, đơn lĩnh vực nhƣng có nhiều cấp đào tạo và có bao gồm cả viện
nghiên cứu khoa học chuyên ngành”.[33]
Nhƣ vậy, trƣờng ĐH là cơ sở giáo dục ở bậc cao, thực hiện các hoạt
động giáo dục ĐH và sau ĐH, nó bao gồm các loại hình công lập, bán công,
dân lập, tƣ thục. Trƣờng ĐH có các chức năng chủ yếu là đào tạo, NCKH và
phục vụ xã hội. Chƣơng trình đào tạo của các trƣờng ĐH nƣớc ta hiện nay
thông thƣờng kéo dài từ 3 đến 6 năm, tuỳ theo các ngành học và trình độ cụ
thể, với các phƣơng thức giáo dục đa dạng : chính quy, không chính quy, ….
1.2.2. Đặc điểm của trƣờng đại học
1.2.2.1. Đặc điểm chung
Với tƣ cách là trung tâm sáng tạo khoa học - công nghệ và đào tạo nhân
lực có trình độ cao, trƣờng ĐH đóng vai trò quyết định đối với tiến bộ xã hội.
Mục tiêu đào tạo của ĐH là đào tạo ngƣời học có phẩm chất chính trị,
đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành
nghề nghiệp tƣơng xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.[7, tr.25]
Nội dung giáo dục ĐH phải có tính hiện đại và phát triển, bảo đảm cơ
cấu hợp lý giữa kiến thức khoa học cơ bản với kiến thức chuyên ngành và các
bộ môn khoa học Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; kế thừa và phát huy
truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hoá dân tộc; tƣơng ứng với trình độ chung
16
của khu vực và thế giới.[7, tr.26]
Phƣơng pháp giáo dục ĐH phải coi trọng bồi dƣỡng năng lực tự học, tự
nghiên cứu, tạo điều kiện cho ngƣời học phát triển tƣ duy sáng tạo, rèn luyện
kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng.[7, tr.26]
Quá trình đào tạo diễn ra trong trƣờng ĐH phải coi trọng mục tiêu năng
lực cho ngƣời học; phải quan tâm phát huy các hoạt động tích cực, chủ động
sáng tạo của ngƣời học, để ngƣời học có cơ hội hình thành năng lực phát hiện
và giải quyết vấn đề, cũng nhƣ hình thành các kỹ năng, nhƣ kỹ năng tƣ duy,
kỹ năng vận dụng, kỹ năng giao tiếp, … ở trình độ của chuyên gia.
Ngƣời học ở bậc ĐH - sinh viên (SV) là những ngƣời đã trƣởng thành
và đã có định hƣớng nghề nghiệp. Do vậy, họ phải đƣợc ứng xử nhƣ những
người lớn trong mọi hoạt động. Họ hoàn toàn có khả năng tự học, tự nghiên
cứu, họ cũng đƣợc yêu cầu phải có cách học chủ động, khả năng tự lực tìm
kiếm và xử lý thông tin và phải có khao khát sáng tạo. Có nhƣ vậy sau khi tốt
nghiệp, SV mới có thể có năng lực trí tuệ, khả năng sáng tạo và thích ứng; có
khả năng hành động để có thể lập nghiệp; có năng lực tự học, tự nghiên cứu
để có thể học thƣờng xuyên, học suốt đời; có năng lực quốc tế để có thể hội
nhập.
Để có thể dẫn dắt SV theo những mục tiêu của bậc học ĐH, để có thể
dạy “cách học” cũng nhƣ có thể khuyến khích tính ham hiểu biết của SV, giúp
SV đạt đƣợc năng lực học suốt đời qua việc tự giáo dục, ngƣời dạy ở ĐH –
giảng viên (GV) đƣợc đòi hỏi cần phải có khả năng tìm kiếm, lựa chọn thông
tin; cần phải có khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề; họ phải hiểu cách
học và các hoạt động liên quan đến sự phát triển của SV; đồng thời phải tận
tâm với công việc và sẵn sàng trao đổi học thuật với đồng nghiệp, thƣờng
xuyên cập nhật kiến thức chuyên môn nghiệp vụ.[21] Theo khuyến cáo của
UNESCO, yêu cầu đối với một ngƣời dạy ở ĐH trong thời đại ngày nay là
17
bên cạnh năng lực chuyên môn, năng lực NCKH và năng lực sƣ phạm, ngƣời
GV bậc ĐH cần phải có thêm năng lực nhận thức, năng lực hành động, năng
lực quản lý và lãnh đạo và năng lực giao tiếp, truyền thông. Ngƣời GV cần
hiểu biết về công nghệ thông tin và có khả năng ứng dụng chúng trong dạy
học, cũng nhƣ cần phải có kiến thức đo lƣờng và đánh giá trong giáo dục và
dạy học để đánh giá chính xác, khách quan kết quả học tập của SV, góp phần
khẳng định chất lƣợng sản phẩm đào tạo của mình.
Về phƣơng diện quản lý, trƣờng ĐH chịu sự quản lý nhà nƣớc về giáo
dục của Bộ GD-ĐT, chịu sự quản lý hành chính theo lãnh thổ của UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng nơi trƣờng đặt trụ sở.
1.2.2.2. Nhiệm vụ của trường đại học
Nhiệm vụ của trƣờng ĐH đƣợc quy định cụ thể tại điều 9 Điều lệ
trường ĐH. Trong đó quan trọng nhất là nhiệm vụ đào tạo nhân lực có đạo
đức tốt, có kiến thức và năng lực đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Đồng thời, trƣờng ĐH phải tiến hành NCKH và phát triển công nghệ;
kết hợp đào tạo với NCKH và sản xuất.
1.2.2.3. Quyền hạn và trách nhiệm của trường đại học
Điều 10 của Điều lệ trƣờng ĐH quy định về quyền hạn và trách nhiệm
của trƣờng ĐH, theo đó, trƣờng ĐH có quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm
theo quy định của pháp luật và Điều lệ trƣờng ĐH về quy hoạch, kế hoạch
phát triển nhà trƣờng; tổ chức các hoạt động đào tạo; khoa học và công nghệ;
tài chính; quan hệ quốc tế; tổ chức và nhân sự.
1.2.3. Thế nào là trƣờng đại học dân lập ?
Năm 1988, ĐHDL đầu tiên của nƣớc ta đƣợc thành lập. Thực hiện
Nghị quyết Trung ƣơng 2 khoá VIII của Đảng với chủ trƣơng xã hội hoá
(XHH) các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, Đảng và Nhà nƣớc ta
đã tiếp tục ban hành nhiều chính sách pháp luật về XHH nhằm tạo điều kiện
18
cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao phát triển nhanh hơn, có
chất lƣợng và hiệu quả cao hơn. Lần lƣợt, nhiều trƣờng CĐ và ĐHDL khác đã
ra đời, tính đến nay trên cả nƣớc ta đã có 29 trƣờng, chiếm 11% tổng số SV
trên cả nƣớc.
Khái niệm về trƣờng dân lập đã đƣợc các văn bản pháp quy đề cập đến,
nhƣ : Quy chế tạm thời ĐHDL do Bộ trƣởng Bộ GD-ĐT ban hành năm 1994,
Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 của Chính phủ về chính sách
khuyến khích XHH giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, Quy chế ĐHDL đƣợc ban
hành theo Quyết định số 86/2000/QĐ-TTg ngày 18/7/2000 của Thủ tƣớng
Chính phủ. So sánh các văn bản nói trên, cho thấy khái niệm về ĐHDL đã
đƣợc chính xác hoá :
“Trƣờng đại học dân lập là cơ sở giáo dục đại học do tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế xin thành lập và huy động các nhà
giáo, nhà đầu tƣ cùng đóng góp công sức, kinh phí và cơ sở vật chất ban đầu
từ nguồn ngoài ngân sách nhà nƣớc. Trƣờng đại học dân lập là pháp nhân
đƣợc tự chủ về tổ chức bộ máy, tuyển dụng lao động và tài chính. Tài sản của
trƣờng thuộc quyền sở hữu tập thể của những ngƣời góp vốn đầu tƣ, các giảng
viên, cán bộ và nhân viên nhà trƣờng”.[12]
ĐHDL nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, đƣợc Thủ tƣớng Chính
phủ ra quyết định thành lập dựa trên cơ sở đề nghị của Bộ trƣởng Bộ GD-ĐT,
chịu sự quản lý nhà nƣớc về giáo dục của Bộ GD-ĐT và các cơ quan quản lý
giáo dục theo sự phân công, phân cấp của Chính phủ, đồng thời chịu sự quản
lý hành chính theo lãnh thổ của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng
nơi trƣờng đặt trụ sở. ĐHDL có tƣ cách pháp nhân, có con dấu và đƣợc mở tài
khoản tại Ngân hàng thƣơng mại hoặc Kho bạc Nhà nƣớc để giao dịch.[12]
1.2.4. Những nét đặc thù của trƣờng đại học dân lập
So với các trƣờng ĐH công lập, ĐHDL hoạt động theo các quy định
19
của cả Điều lệ trƣờng ĐH và Quy chế ĐHDL. “ĐHDL đƣợc hƣởng quyền
bình đẳng với các trƣờng ĐH công lập về nhiệm vụ và quyền hạn của nhà
trƣờng, của GV và SV, trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung, chƣơng trình,
phƣơng pháp đào tạo và các quy định liên quan đến tuyển sinh, dạy và học,
thi, kiểm tra công nhận tốt nghiệp, cấp văn bằng”.[12]
Có thể nhận thấy ngay điểm khác biệt cơ bản nhất giữa ĐHDL với
trƣờng ĐH công lập là : ĐHDL đƣợc xây dựng bằng nguồn kinh phí ngoài
Ngân sách nhà nước; nguồn kinh phí xây dựng ĐHDL đƣợc huy động từ các
tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội và các cá nhân trong xã hội theo chủ
trƣơng XHH giáo dục của Đảng.
1.2.4.1. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của ĐHDL cơ bản là giống với cơ cấu tổ chức của
trƣờng ĐH công lập, điểm khác là trong ĐHDL có một tổ chức đƣợc gọi tên
là Hội đồng quản trị (HĐQT) : “HĐQT là tổ chức đại diện duy nhất quyền sở
hữu tập thể nhà trƣờng, có trách nhiệm và quyền tự chủ quyết định những vấn
đề quan trọng về tổ chức, nhân sự và tài chính, tài sản của trƣờng”.[12]
HĐQT phải đƣợc Bộ GD-ĐT ra quyết định công nhận và có nhiệm kỳ
5 năm. Thành viên của HĐQT bao gồm các thành phần : (1) Đại diện Ban
lãnh đạo của tổ chức xin thành lập trƣờng; (2) Đại diện các nhà đầu tƣ về tài
chính, tài sản để xây dựng trƣờng; (3) Đại diện cho GV, cán bộ và nhân viên
cơ hữu của trƣờng; (4) Hiệu trƣởng; (5) Đại diện cấp uỷ Đảng cơ sở của
trƣờng.
1.2.4.2. Tài chính
ĐHDL đƣợc quyền tự chủ cao về tài chính theo nguyên tắc tự cân đối
thu chi, duy trì các hoạt động và phát triển nhà trƣờng. Tài sản của ĐHDL
gồm tài sản thuộc phần vốn góp của các nhà đầu tƣ và tài sản tăng thêm trong
quá trình hoạt động. Tài sản của ĐHDL sau khi trừ phần vốn góp của tập thể,
20
cá nhân và phần chi phí cho các hoạt động của trƣờng là tài sản không chia
thuộc quyền sở hữu tập thể nhà trƣờng và đƣợc Nhà nƣớc bảo vệ theo quy
định của pháp luật.[12]
Trong các khoản thu chi của ĐHDL, nguồn thu chủ yếu nhất của
ĐHDL là thu học phí và lệ phí của ngƣời học; ngƣợc lại ĐHDL lại có những
khoản chi thƣờng xuyên mà các trƣờng ĐH công lập không có nhƣ : trả tiền
thuê cơ sở vật chất, trả lãi vốn vay, vốn góp, …
1.2.4.3. Đội ngũ giảng viên
Đội ngũ GV của ĐHDL bao gồm : GV thỉnh giảng và GV cơ hữu.
Nhằm duy trì và nâng cao chất lƣợng đào tạo, ĐHDL thƣờng mời các
GV giỏi, các chuyên gia đầu ngành từ các trƣờng ĐH, các viện nghiên cứu,
các trung tâm đào tạo lớn trong và ngoài nƣớc về trƣờng giảng dạy. Đây là
một lợi thế mà tất cả các ĐHDL đều đã và đang sử dụng triệt để nhằm duy trì
và nâng cao chất lƣợng đào tạo của trƣờng.
Lực lƣợng GV cơ hữu của các ĐHDL hiện nay nhìn chung còn rất
mỏng. Trong đó, phần lớn những ngƣời có trình độ và uy tín khoa học cao
đều đã cao tuổi, phần còn lại thì đa số là SV mới tốt nghiệp ra trƣờng. Vì vậy,
các ĐHDL phải có chiến lƣợc quy hoạch đội ngũ dài hạn, phải có kế hoạch
đào tạo, bồi dƣỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ GV cơ hữu của mình.
1.2.4.4. Sinh viên
Thực tế cho thấy, trình độ đầu vào của SV các ĐHDL thƣờng thấp hơn
các trƣờng công lập. Bên cạnh đó, vẫn tồn tại sự bất bình đẳng trong sự đối xử
cũng nhƣ trong quan niệm của ngƣời dân trong xã hội đối với SV tốt nghiệp
từ các trƣờng ngoài công lập, trong xã hội hiện vẫn còn tồn tại quan niệm : cái
gì của “công” cũng vẫn tốt hơn của “tƣ”. Điều này đã tạo ra nhiều ảnh hƣởng
tiêu cực đối với không ít SV của các trƣờng ngoài công lập.
1.2.4.5. Cơ sở vật chất
21
Nhƣ trên đã nói, ĐHDL đƣợc xây dựng bằng nguồn kinh phí huy động
từ các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân trong xã hội theo chủ trƣơng
XHH giáo dục. Tuy vậy, khi mới thành lập, hầu hết các ĐHDL thƣờng không
có vốn góp – tài sản – cơ sở vật chất ban đầu, các ĐHDL phải thuê địa điểm
để bố trí chỗ học cho SV. Mặt khác, Nhà nƣớc cũng chƣa có hƣớng dẫn và
thực hiện chính sách cấp đất xây dựng trƣờng sở cho các trƣờng. Một số
ĐHDL hiện đã đƣợc cấp đất để xây dựng trƣờng sở, chủ yếu là dựa vào mối
quan hệ của trƣờng với chính quyền cấp tỉnh, thành phố.
1.3. NHẬN DIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ TRƢỜNG ĐẠI HỌC
NÓI CHUNG VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ TRƢỜNG ĐẠI HỌC
DÂN LẬP NÓI RIÊNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Quản lý giáo dục nói chung và quản lý nhà trƣờng nói riêng, nhƣ đã
đề cập ở phần trƣớc, có ba đối tƣợng quản lý cơ bản, các đối tƣợng này đƣợc
thể hiện trên tất cả các lĩnh vực trong công tác quản lý của trƣờng ĐH
(bao gồm cả trƣờng ĐH công lập và ĐHDL).
1.3.1. Tổ chức và nhân sự
Theo các văn bản pháp quy của Nhà nƣớc nhƣ : Điều lệ trƣờng ĐH,
Quy chế ĐHDL, trƣờng ĐH nói chung và ĐHDL nói riêng có cơ cấu tổ chức
tƣơng đối giống nhau, bao gồm các thành phần sau đây :
- Hội đồng trƣờng (đối với các trƣờng ĐH công lập) hoặc Hội đồng
quản trị (đối với các trƣờng ĐH ngoài công lập)
- Hiệu trƣởng và các Phó Hiệu trƣởng
- Hội đồng Khoa học và đào tạo
- Các phòng chức năng
- Các khoa và bộ môn trực thuộc trƣờng, các bộ môn trực thuộc khoa
- Các tổ chức khoa học và công nghệ
- Các doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp
22
- Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam
- Các đoàn thể và tổ chức xã hội.[6]
Trong các trƣờng ĐH công lập, cơ quan quản trị của nhà trƣờng là Hội
đồng trƣờng. Hội đồng trƣờng quyết nghị các chủ trƣơng lớn để thực hiện
quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trƣờng ĐH đƣợc Nhà nƣớc giao theo
quy định của pháp luật và theo Điều lệ trƣờng ĐH. Trong các ĐHDL, thì Hội
đồng quản trị (HĐQT) là tổ chức đại diện duy nhất quyền sở hữu của trƣờng.
HĐQT có trách nhiệm và quyền tự chủ quyết định những vấn đề quan trọng
về tổ chức, nhân sự và tài chính, tài sản của trƣờng.
Hiệu trƣởng là ngƣời đại diện theo pháp luật của trƣờng ĐH; là ngƣời
có các quyền hạn và phải chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý và điều hành các
hoạt động của nhà trƣờng theo các quy định của pháp luật và của Điều lệ
trƣờng ĐH (cũng nhƣ của Quy chế ĐHDL).
Quá trình hình thành và phát triển của các ĐHDL từ năm 1988 đến nay
đã cho thấy : ở một số trƣờng, HĐQT giữ đƣợc vai trò là tổ chức có quyền lực
cao nhất trong bộ máy của nhà trƣờng. Nhƣng ở một số trƣờng khác, HĐQT
trong thực tế không hoạt động hoặc hoạt động không có hiệu quả. Về hoạt
động và thành phần của HĐQT cũng đã xảy ra một số thiếu sót : ở một số
trƣờng đã xảy ra tình trạng mất đoàn kết trong nội bộ HĐQT, đặc biệt là giữa
Chủ tịch HĐQT và Hiệu trƣởng, số lƣợng và thành phần của HĐQT chƣa hợp
lý, thậm chí có nơi còn vi phạm Quy chế ĐHDL. Hầu hết các Hiệu trƣởng đã
thực hiện các quy định và quyền hạn ngƣời đại diện của ĐHDL trƣớc pháp
luật, đặc biệt là ở những trƣờng mà Hiệu trƣởng là ngƣời đã từng làm công
tác quản lý ở các trƣờng ĐH công lập.[30]
Hầu hết các ĐHDL đã tìm hiểu kinh nghiệm cơ cấu tổ chức của các
trƣờng ĐH công lập trong nƣớc cũng nhƣ các trƣờng ĐH tƣ thục ở nƣớc
ngoài và cải tiến để xây dựng bộ máy quản lý gọn nhẹ, hoạt động tƣơng đối
23