Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 100 trang )
“Hoạt động quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể
quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ
chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”. [17]
Từ điển tiếng Việt viết: “Quản lý là hoạt động của con người tác động vào
tập thể người khác để phối hợp điều chỉnh phân công thực hiện mục tiêu
chung” [25].
Tác giả Hà Sĩ Hồ thì cho rằng: “Quản lý là quá trình tác động có định
hướng, có tổ chức, lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các
thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường, nhằm giữ cho sự vận
hành của đối tượng ổn định và làm cho nó phát triển tới mục đích đã định”.
Giáo trình của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh do Hồ Văn Vĩnh
chủ biên viết: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể
quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra”.
Hoạt động quản lý bao gồm hai quá trình Quản-Lý luôn đan xen và hoà
quyện vào nhau:
- “Quản” là quá trình bao hàm sự coi sóc, gìn giữ nhằm duy trì hệ thống ở
trạng thái “ổn định”.
- “Lý” là quá trình bao hàm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới nhằm đưa hệ
thống vào thế “phát triển”.
Nếu trong hoạt động quản lý, nhà quản lý chỉ chú trọng đến “Quản” thì tổ
chức dễ dẫn đến trì trệ, bảo thủ. Ngược lại nếu chỉ chú trọng đến “Lý” thì tổ
chức lại rơi vào thế mất cân bằng, bất ổn định. Chính vì thế người quản lý
phải luôn xác định và biết điều phối tốt sao cho trong “Quản” phải có “Lý” và
trong “Lý” phải có “Quản”, làm cho trạng thái của hệ thống luôn ở trạng thái
cân bằng động. Tức quản lý chính là quá trình giữ gìn sự ổn định để phát triển
và sự phát triển luôn tạo ra được thế ổn định của hệ.
Từ các cách tiếp cận trên ta thấy: Quản lý là tác động liên tục có hướng
đích, có tổ chức từ chủ thể quản lý đến khách thể quản lý bằng hệ thống các
8
nguyên tắc, luật lệ, chính sách, phương pháp, biện pháp tạo điều kiện cho sự
phát triển đối tượng và uy tín của nhà quản lý.
Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận, đó là chủ thể quản lý (cá
nhân hay tổ chức làm nhiệm vụ quản lý, điều khiển) và đối tượng quản lý (là
bộ phận chịu sự quản lý), đây là quan hệ ra lệnh – phục tùng, không đồng cấp
và có tính bắt buộc.
Quản lý là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với qui
luật khách quan.
1.1.2. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là bộ phận quan trọng của hệ thống quản lý xã hội, đã
xuất hiện từ lâu và tồn tại dưới mọi chế độ xã hội. Có nhiều tác giả nghiên
cứu về lĩnh vực quản lý giáo dục, với cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên
cứu đã đưa ra khái niệm quản lý giáo dục như sau:
“Quản lý hệ thống giáo dục có thể xác định như là tác động có hệ thống,
có kế hoạch và định hướng của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả
các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến Trường, các Sở GD&ĐT ... ) nhằm mục
đích đảm bảo việc giáo dục xã hội ... cũng như vận dụng các qui trình giáo
dục, của sự phát triển thể lực, tâm lực trẻ em, thiếu niên và thanh niên” [26]
“Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp
các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu
của xã hội hiện nay” [12]
“Quản lý giáo dục, quản lý trường học có thể là một chuỗi tác động hợp lý
(có mục đích, tự giác, có kế hoạch, có hệ thống) mang tính tổ chức sư phạm
của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và học sinh, đến những lực lượng
giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng cộng tác, phối
hợp tham gia vào mọi hoạt động của nhà trường nhằm làm cho qui trình này
vận hành tới việc hoàn thành những mục đích dự kiến” [12]
T.Bush đã chỉ ra 7 phương diện, trong đó quản lý giáo dục khác rõ dệt với
quản lý các tổ chức khác. Ở phương diện thứ 4 có nêu vai trò của người quản
9
lý là: “Những người quản lý giáo dục có chung một cơ sở nghề nghiệp với
giáo viên, giáo viên có phạm vi rộng trong hoạt động nghề nghiệp, tham gia ở
một mức độ đáng kể vào các quyết định quản lý vì sự cam kết của họ đối với
việc thực hiện các quyết định là một đảm bảo cho sự thành công của các hoạt
động giáo dục” [19]
Từ những khái niệm nêu trên chúng ta có thể hiểu quản lý giáo dục là sự
tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa hoạt
động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt hiệu quả mong muốn.
Quản lý giáo dục là quản lý con người nên đòi hỏi phải có những
nguyên tắc giáo dục. Những nguyên tắc giáo dục là những yêu cầu, những
tiêu chuẩn, những luận điểm cơ bản chỉ đạo, việc tổ chức của chủ thể quản
lý giáo dục. Các cơ quan quản lý trong ngành giáo dục, dù ở cấp nào, dù
đảm nhận chức năng nào đều phải tổ chức và phải hoạt động theo đúng các
nguyên tắc. Đó là tính khoa học và thực tiễn, tập trung và dân chủ, kết hợp
nhà nước và nhân dân.
Đối với quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo cần thực hiện tốt một số
nội dung sau: [19]
- Ban hành và tổ chức thực hiện hệ thống văn bản pháp luật về GD&ĐT
- Hoàn thiện tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý của nhà nước về GD&ĐT
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch, chương trình phát triển
GD&ĐT
- Đầu tư cho GD&ĐT, tổ chức và hướng dẫn quản lý ngân sách GD&ĐT
- Phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực GD&ĐT
- Xây dựng hệ thống thông tin quản lý GD&ĐT
- Thực hiện kiểm tra, kiểm soát của nhà nước về GD&ĐT
Chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý giáo dục phụ thuộc một phần
rất quan trọng vào việc xác định đúng đắn và cụ thể mục tiêu quản lý. Trong
công tác giáo dục, mỗi loại mục tiêu (lớn – nhỏ, ngắn – dài, chung – riêng)
10
đều có vị trí nhất định và tầm quan trọng tất yếu của nó. Mối quan hệ giữa
chúng là mối quan hệ biện chứng giữa mục đích và phương tiện.
1.1.3. Các chức năng quản lý
Chức năng kế hoạch hoá: Là quan trọng nhất của việc lãnh đạo và lập kế
hoạch tức là soạn thảo và thông qua những quyết định quản lý quan trọng.
Chức năng tổ chức: Là hoạt động thực hiện kế hoạch bằng tổ chức. Đó
là hoạt động thực hiện các quyết định bằng cách xây dựng cấu trúc tổ chức
của đối tượng quản lý, xây dựng cấu trúc tổ chức của chủ thể quản lý, tạo
ra một mạng lưới quan hệ tổ chức, tuyển chọn sắp xếp, bồi dưỡng cán bộ...
làm cho mục tiêu trở nên có ý nghĩa và góp phần tăng thêm tính hiệu quả
về mặt tổ chức.
Chức năng chỉ đạo: Chỉ dẫn, động viên, điều chỉnh và phối hợp các lực
lượng trong nhà trường tích cực hăng hái, chủ động làm việc theo sự phân
công và kế hoạch đã định.
Chức năng kiểm tra, đánh giá: Là chức năng có liên quan đến mọi cấp
quản lý để đánh giá đúng kết quả hoạt động của hệ thống. Nó thực hiện
việc xem xét tình hình thực hiện công việc đối chiếu với yêu cầu để có sự
đánh giá đúng.
Các chức năng quản lý giáo dục tạo thành một hệ thống thống nhất với
một trình tự nhất định, trong quản lý giáo dục không được coi nhẹ một chức
năng nào.
1.1.4. Giáo viên trung học cơ sở
Giáo viên THCS là những người được đào tạo nghiệp vụ sư phạm trong
các trường cao đẳng sư phạm hoặc ĐH sư phạm, để có trình độ cao đẳng trở
lên, làm nhiệm vụ giảng dạy bậc Trung học cơ sở. Bậc Trung học cơ sở thực
hiện trong 4 năm học, từ lớp 6 đến lớp 9, học sinh vào lớp 6 phải hoàn thành
chương trình Tiểu học, có tuổi là 11 tuổi. Giáo dục THCS giúp học sinh củng
cố và phát triển những kết quả của GD Tiểu học, có học vấn phổ thông ở trình
độ cơ sở, có hiểu biết ban đầu về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học lên.
11
1.1.5. Đội ngũ giáo viên trung học cơ sở
Có nhiều cách hiểu về đội ngũ khác nhau, ngày nay khái niệm về đội ngũ
dùng cho các tổ chức xã hội rộng rãi hơn như đội ngũ cán bộ công chức, đội
ngũ trí thức, đội ngũ văn nghệ sỹ, đội ngũ những người tình nguyện ... đều
xuất phát từ cách hiểu thuật ngữ trong quân sự về đội ngũ “Đó là một tổ chức
gồm nhiều người, tập hợp thành một lực lượng”. Theo lý luận khoa học quản
lý thì đây là một đội công tác, trong đó các cá nhân kết hợp với nhau, thường
xuyên trau dồi kinh nghiệm học hỏi lẫn nhau để đạt được mục tiêu và kế
hoạch của tổ chức đặt ra. Vậy đội ngũ lao động gồm những người lao động,
tức là nguồn nhân lực được sử dụng vào một mục đích nào đó.
Có thể hiểu rõ hơn về đội ngũ, theo từ điển Tiếng Việt (2000) “Đội ngũ là
tập hợp gồm một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp, thành một
lực lượng” [25]
Các khái niệm về đội ngũ tuy khác nhau, nhưng đều thống nhất một điều:
Đó là nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng để thực hiện
một hay nhiều chức năng, có thể cùng nghề nghiệp hoặc không cùng, nhưng
đều có chung một mục đích nhất định.
Khi đề cập đến đội ngũ giáo viên, tác giả Virgil K.Rowland đã nêu lên
quan niệm: “Đội ngũ giáo viên là những chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục,
họ nắm vững tri thức và hiểu biết dạy học và giáo dục như thế nào và có khả
năng cống hiến toàn bộ sức lực và tài năng của họ đối với giáo dục”.
“Đội ngũ giáo viên trong ngành giáo dục là một tập thể người, bao gồm
cán bộ quản lý, giáo viên và công nhân viên. Nếu chỉ đề cập đến đặc điểm
của ngành thì đội ngũ đó chủ yếu là đội ngũ giáo viên và đội ngũ quản lý
giáo dục” [12].
Từ những quan niệm trên, ta có thể hiểu đội ngũ giáo viên Trung học cơ
sở là một tập hợp những người làm nghề dạy học, giáo dục, được tổ chức
thành một lực lượng có tổ chức, cùng chung một nhiệm vụ, cùng thực hiện
các mục tiêu giáo dục đề ra là giáo dục thế hệ học sinh THCS để học sinh
12
phát triển toàn diện cả trí - đức - thể - mỹ, có kiến thức phổ thông ban đầu để
chuẩn bị học lên THPT hoặc có thể trực tiếp tham gia vào quá trình lao động
sản xuất. Họ làm việc có kế hoạch và gắn bó với nhau thông qua lợi ích về vật
chất và tinh thần trong khuôn khổ qui định của pháp luât, thể chế xã hội.
Đội ngũ giáo viên THCS nếu chỉ quan tâm đến đặc điểm của ngành thì
bao gồm: Những giáo viên trực tiếp giảng dạy, cán bộ quản lý của phòng giáo
dục, những cán bộ quản lý nhà trường bậc Trung học cơ sở.
1.1.6. Công tác quản lý đội ngũ giáo viên trung học cơ sở
1.1.6.1. Khái niệm
Hiện nay chưa có định nghĩa cụ thể nào về quản lý đội ngũ giáo viên
THCS nói riêng và đội ngũ giáo viên nói chung, tuy nhiên qua nghiên cứu ta
có thể hiểu qua một số khái niệm như sau:
Quản lý giáo viên là một trong những nội dung hoạt động quản lý, điều
hành của nhà trường và là một trong các giải pháp quan trọng để xây dựng
nhà trường.
Quản lý giáo viên là quản lý trí thức, nhà quản lý phải nắm bắt được các
đặc thù của đội ngũ trí thức là lao động trí óc sáng tạo theo thiên hướng cá
nhân. Tính đặc thù còn thể hiện qua những nét đặc trưng của lĩnh vực sản
xuất tinh thần, trong đó sản phẩm trí tuệ không phải lúc nào cũng có thể trở
thành hàng hoá và không phải lúc nào cũng định lượng, hạch toán kinh tế
được.
Nhà quản lý phải biết xử lý tốt mối quan hệ giữa quản lý và tự do sáng tạo
của đội ngũ trí thức giáo viên, chấp nhận sự phong phú đa dạng của tư duy
sáng tạo cá nhân và quản lý bằng định hướng, bằng các chương trình mục
tiêu. Đối với người sản xuất vật chất, động cơ thúc đẩy họ sản xuất, kinh
doanh là lợi nhuận, nhưng đối với trí thức nói chung và đội ngũ giáo viên
THCS nói riêng, nhu cầu về hiểu biết, trách nhiệm và vinh dự trước nhân dân
và thế hệ trẻ, uy tín nghề nghiệp là những tác nhân đặc biệt quan trọng mà
nhà quản lý cần nhận biết đầy đủ với nhiều khía cạnh và ý nghĩa của nó.
13
Quản lý đội ngũ giáo viên ngoài ý nghĩa là quản lý một đội ngũ trí thức,
nó còn có ý nghĩa lớn lao hơn là quản lý một đội ngũ đang thực thi một nghề
cao quí và đầy sáng tạo: Nghề dạy học.
1.1.6.2. Vai trò và nhiệm vụ của quản lý giáo viên Trung học cơ sở
Giáo dục THCS có nhiệm vụ trang bị, nâng cao trình độ học vấn phổ
thông ở trình độ cơ sở cho học sinh và cung cấp cho họ hiểu biết ban đầu về
kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học lên, vì vậy nhiệm vụ quản lý giáo
viên THCS hết sức quan trọng trong việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài
đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, yêu cầu này đòi hỏi người quản lý, người
giáo viên phải không ngừng nâng cao trình độ tay nghề, cập nhật kiến thức.
Công tác quản lý phải được đổi mới thường xuyên, phải dự báo về nhu cầu
học tập của người học, tạo cơ hội cho người học. Chính vì vậy đòi hỏi: Đội
ngũ giáo viên THCS phải đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, chuẩn
về trình độ, chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên phải không ngừng
nâng cao.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, việc quản lý tốt đội ngũ giáo viên THCS
là rất cần thiết. Trong đề án của Chính phủ về xây dựng, nâng cao chất lượng
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005-2010 đã chỉ rõ:
“Tiến hành rà soát, sắp xếp lại đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục để
có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo đủ số lượng và cân đối về cơ cấu,
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức cho đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục”[17]. Người quản lý cần phải xem xét, phân tích và
căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của nhà trường để có kế hoạch xây dựng đội
ngũ giáo viên cho phù hợp. Người quản lý đội ngũ giáo viên THCS phải thực
sự đổi mới trong cách nghĩ, cách làm, coi chất lƣợng giáo dục là mục tiêu
hàng đầu, đồng thời coi đội ngũ giáo viên là giải pháp chiến lƣợc đối với
sự trƣờng tồn của nhà trƣờng. Đội ngũ giáo viên phải được xây dựng đồng
bộ và bố trí đúng người, đúng việc. Những giáo viên cao tuổi, năng lực
chuyên môn yếu cần đề nghị các cấp quản lý bố trí cho nghỉ hưu hoặc chuyển
14
công tác khác theo yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh đó có kế hoạch bổ sung
những giáo viên trẻ về công tác, hoặc tuyển chọn những giáo viên trẻ có
chuyên môn giỏi cử đi bồi dưỡng tập huấn, hoặc gửi đi đào tạo trên chuẩn ở
các trình độ.
Có thể khẳng định rằng xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên THCS
được tiến hành đồng bộ và nhất quán sẽ tạo được đội ngũ giáo viên chuẩn, ổn
định, đủ khả năng đảm nhiệm được chức năng nhiệm vụ của các nhà trường
trước mắt cũng như lâu dài, góp phần tạo đà cho sự phát triển ở địa phương.
1.1.6.3. Nội dung quản lý giáo viên
Công tác quản lý giáo viên là một hoạt động tổng hợp của nhiều quá trình,
nhiều phương diện trong hoạt động đa dạng của nhà trường. Có thể nêu ra
một số nội dung sau:
- Quản lý theo các yêu cầu của công tác tổ chức cán bộ:
Những yêu cầu này được thể hiện trong Luật giáo dục, Pháp lệnh cán
bộ, công chức, các văn bản của Nhà nước, ngành qui định về trách nhiệm,
nghĩa vụ và quyền hạn của người giáo viên. Đây là nội dung quản lý quan
trọng nhất, làm cho nhà trường và đội ngũ giáo viên hoạt động đúng theo
những qui định của pháp luật, các qui định của nhà nước, của ngành. Nội
dung của phương diện quản lý này bao gồm nhiều vấn đề cụ thể đã được
qui định, nhưng hiệu quả lại tuỳ thuộc vào việc áp dụng một cách cụ thể ở
từng đối tượng.
Thông qua các bộ phận chức năng, nhà trường quản lý hồ sơ, cụ thể hoá
tiêu chuẩn cán bộ giảng dạy để nâng cao trình độ và tuyển chọn cán bộ phù
hợp cho từng công việc, từng lớp cụ thể. Quản lý đi đôi với việc thực hiện
hợp lý chế độ thù lao, phụ cấp, đãi ngộ, thi đua khen thưởng.
Quản lý, sắp xếp cán bộ theo chức danh, trình độ đào tạo để yêu cầu cán
bộ tự bồi dưỡng, coi bồi dưỡng kiến thức là một tiêu chí đánh giá, nhà trường
có các biện pháp hỗ trợ giáo viên đi học các lớp bồi dưỡng, đào tạo nâng cao
15
nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ được giao.
- Quản lý theo yêu cầu công tác chuyên môn:
Đây là nội dung quản lý chuyên môn có tác dụng thường xuyên đối với
giáo viên. Công tác quản lý này có sự phối hợp giữa nhà trường với các tổ bộ
môn, giữa nhà trường với phòng giáo dục.
Nội dung công tác này chính là việc ban hành các qui định về hoạt động
chuyên môn, xây dựng các tiêu chí đánh giá giáo viên về quá trình giảng dạy,
trình độ ngoại ngữ, tin học ...
Mặt khác công tác này còn được thực hiện theo các hướng sau: Quản lý
khối lượng giờ dạy theo năm học; Quản lý giờ lên lớp (Nhà trường, phòng
giáo dục có hệ thống thanh tra chuyên trách và bộ phận thường xuyên kiểm
tra nề nếp giảng dạy); Quản lý nội dung và phương pháp giảng dạy (Cùng với
hoạt động đổi mới nội dung của Bộ GD&ĐT thì hoạt động đổi mới phương
pháp dạy học là một trong những nội dung quan trọng của giáo viên. Các bộ
môn phải có lịch dự giờ thăm lớp, góp ý bài giảng, khuyến khích việc áp
dụng các phương tiện hiện đại và phương pháp tiên tiến vào giảng dạy, tổ
chức các giờ giảng mẫu, toạ đàm, thử nghiệm các phương pháp mới trong
giảng dạy).
- Quản lý về công tác hoạt động đảng, đoàn thể:
Nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi bộ Đảng, xây dựng chi bộ trong
sạch vững mạnh. Nâng cao vai trò của người đảng viên, phát huy hết khả
năng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mục tiêu phấn đấu vào Đảng là một trong
những động lực nâng cao hiệu quả của công tác quản lý, nâng cao chất lượng,
trình độ mọi mặt của giáo viên.
Chính vì vậy tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên phải tham gia tích
cực vào hoạt động quản lý giáo viên với tư cách là những hoạt động hỗ trợ
của đoàn thể quần chúng.
16
Công đoàn tham gia vào việc điều hoà các mối quan hệ, tổ chức dự giờ
thăm lớp, khuyến khích động viên cán bộ đăng ký tham gia viết sáng kiến
kinh nghiệm, đi học nâng cao trình độ.
Đoàn thanh niên tham gia tổ chức quản lý số giáo viên trẻ, nhanh chóng
tiếp cận với các tri thức hiện đại, cập nhật những vấn đề mới của giáo dục
hiện đại, trở thành các hạt nhân xung kích trong các mặt của nhà trường.
- Quản lý theo công tác thanh tra, kiểm tra:
Công tác điều hành, quản lý song song với công tác thanh tra, kiểm tra.
Thành lập các bộ phận chuyên trách, bán chuyên trách về thanh tra và ban
hành các qui định về thanh tra, kiểm tra để giám sát các hoạt động của nhà
trường, đặc biệt là hoạt động giảng dạy của giáo viên.
1.1.7. Chất lượng
Chất lượng luôn là vấn đề quan trọng trong đời sống xã hội, nhất là trong
giáo dục. Việc phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng trong mọi lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ... luôn được xem là nhiệm vụ quan trọng nhất
của bất kỳ tổ chức nào. Mặc dù có tầm quan trọng như vậy nhưng chất lượng
từ lâu vẫn là một khái niệm khó xác định, khó đo lường, đánh giá và cách
hiểu của người này lại khác người kia.
1.1.7.1. Định nghĩa chất lượng
Có nhiều định nghĩa chất lượng khác nhau, dưới đây là một số định nghĩa
chất lượng:
- “Chất lượng là sự xuất sắc bẩm sinh, tự nó là cái tốt nhất”
Điều này chỉ có thể hiểu được, cảm nhận được khi so sánh những sự vật
có cùng đặc điểm với sự vật đang xem xét. Đây là cách tiếp cận tiên nghiệm,
hay cách tiếp cận tuyệt đối về chất lượng. Theo cách tiếp cận này, một sản
phẩm có chất lượng là sản phẩm được làm ra một cách hoàn thiện, bằng các
vật liệu quí hiếm và đắt tiền. Sản phẩm đó nổi tiếng trên thị trường và tôn
vinh người sở hữu nó.
17
Trong giáo dục, theo cách này, các trường danh tiếng trên thế giới được
xem là có chất lượng, thì các giáo viên, người học được tôn vinh đặc biệt
trong xã hội. Tuy nhiên khó có thể sử dụng các tiêu chí đánh giá các trường
danh tiếng đó cho cả hệ thống giáo dục, vả lại các trường khác cũng không
nhất thiết phải giống như các trường nổi tiếng này.
- Chất lượng là sự phù hợp với các tiêu chuẩn
Cách tiếp cận chất lượng từ góc độ tiêu chuẩn hay các thông số kỹ thuật
có nguồn gốc từ ý niệm kiểm soát chất lượng trong các ngành sản xuất và
dịch vụ. Trong bối cảnh này tiêu chuẩn được xem là công cụ đo lường, hoặc
bộ thước đo - một phương tiện trung gian để miêu tả những đặc tính cần có
của một sản phẩm hay dịch vụ.
Chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ được đo bằng sự phù hợp của nó với
các thông số hay tiêu chuẩn được qui định trước đó.
Trong giáo dục cách tiếp cận này tạo cơ hội cho các trường muốn nâng
cao chất lượng giáo dục có thể đề ra các tiêu chuẩn nhất định về các lĩnh vực
trong quá trình đào tạo nghiên cứu của trường mình và phấn đấu theo các tiêu
chuẩn đó.
Nhược điểm của cách tiếp cận này là nó không nêu rõ các tiêu chuẩn được
xây dựng trên cơ sở nào. Hơn nữa, thuật ngữ tiêu chuẩn cho ta ý niệm về một
mẫu hình tĩnh tại, nghĩa là một khi các thông số kỹ thuật đã được xác định thì
không phải xem xét lại chúng. Trong khi khoa học, kỹ thuật và công nghệ
đang có những bước tiến mới, tri thức loài người ngày càng phong phú thì
“tiêu chuẩn” của giáo dục với từng bậc không thể là một khái niệm tĩnh.
- Chất lượng là sự phù hợp với mục đích sử dụng
Chất lượng với tư cách là hiệu quả của việc đạt mục đích của trường học.
Chất lượng là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng (người sử dụng lao
động được đào tạo, phụ huynh học sinh…).
- Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một đối tượng, tạo cho đối tượng
đó khả năng thoả mãn nhu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn (TCVN ISO 1994)
18