Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 120 trang )
tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh đƣợc tăng cƣờng, thể chế kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa đƣợc hình thành về cơ bản; vị thế của
nƣớc ta trên trƣờng quốc tế đƣợc nâng cao ... ".
Bối cảnh chung đã trao cho nhà trƣờng một trách nhiệm vô cùng vẻ
vang và nặng nề, đó là hình thành và phát triển những giá trị mới cho con
ngƣời cả về khía cạnh nhân văn và kĩ thuật. Hoàn thành trách nhiệm đó là
nhiệm vụ của tất cả các môn học và các hoạt động trong nhà trƣờng nói chung
và của việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
nói riêng. Kinh nghiệm của các nuớc phát triển và các nƣớc công nghiệp mới
trên thế giới cũng nhƣ khu vực châu Á- Thái Bình dƣơng đã chỉ rõ những
điều kiện cần thiết để hội nhập và phát triển trong thời đại ngày nay.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của ngoại ngữ, từ cuối những năm 60,
đầu những năm 70 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nƣớc ta đã rất quan tâm đến
việc dạy và học ngoại ngữ trong nhà trƣờng và đến nay lại càng quan tâm
hơn. Có thể nói, công tác dạy ngoại ngữ những năm qua đã có những đóng
góp tích cực vào tiến trình hội nhập và phát triển của đất nƣớc. Phong trào
dạy học ngoại ngữ của nƣớc ta chƣa bao giờ sôi động và phát triển mạnh mẽ
nhƣ ngày nay. Song để đảm bảo và nâng cao chất lƣợng dạy và học ngoại
ngữ, phục vụ thiết thực cho công cuộc hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất
nuớc, tích cực hội nhập hơn nữa vào cộng đồng quốc tế, chúng ta cần đánh
giá đúng thực trạng dạy và học ngoại ngữ, trên cơ sở đó xây dựng chiến lƣợc
dạy học ngoại ngữ khả thi, tạo nên sự đổi mới mang tính đột phá trong việc
dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân nƣớc ta.
Kể từ tháng 9 năm 1945, khi nƣớc nhà giành đƣợc độc lập, tự do đến nay,
do những điều kiện lịch sử, quan hệ ngoại giao và nhu cầu phát triển kinh tếxã hội của từng thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trên đất nƣớc ta đã tồn
tại và phát triển nhiều tiếng nƣớc ngoài, trong đó phổ biến nhất là tiếng Anh,
tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Trung Quốc, giúp chúng ta tìm hiểu thế giới,
tiến ra thế giới, làm cho thế giới hiểu mình và làm bạn với mình. Chúng ta,
74
không ai có thể phủ nhận đƣợc những đóng góp của việc dạy học ngoại ngữ
đối vói sự tiến bộ trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội của nƣớc ta trong suốt
thời gian qua.
Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hoá và sự hội nhập quốc tế đang là xu
thế của thời đại và trong bối cảnh đổi mới, mở cửa hƣớng ra thế giới, làm bạn
với các nƣớc trên thế giới, chúng ta đã nhận thấy những bất cập của việc dạy
học ngoại ngữ trƣớc đòi hỏi của sự phát triển kinh tế và trƣớc nhu cầu mở của
rộng quan hệ song phƣơng và đa phƣơng trên mọi phƣơng diện đặc biệt là
phuơng diện kinh tế và văn hoá, ngoại giao, mọi mặt, cho thấy những cơ hội
để đất nƣớc đi trƣớc, rút ngắn quãng đƣờng phải mầy mò, tránh lập lại những
bƣớc đi không cần thiết trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nƣớc, mặt khác cũng tạo ra cơ hội cho từng ngƣòi dân có thể lựa chọn, tìm
kiếm việc làm trong nƣớc, giúp con ngƣời phát triển những giá trị nhân văn,
hiểu mình và thông hiểu, vị tha đối với dân tộc khác, đặc biệt là tạo cơ hội cho
thế hệ trẻ của đất nƣớc ta có thể theo học, nghiên cứu, mở mang kiến thức ở
bất cứ nơi đâu hứa hẹn một tƣơng lai tốt đẹp cho cá nhân họ và những cống
hiến thực sự có ích cho đất nƣớc. Nhƣng cũng chính trong bối cảnh nhƣ vậy,
chúng ta bắt đầu cảm nhận sự yếu kém trong giao lƣu quốc tế, nhất là khi đàm
phán trực tiếp hay tham gia các khoá học về chuyên môn nghiệp vụ hay khi
tham dự các cuộc thi tài năng quốc tế. Chính vì vậy, để hoà nhập vào sự phát
triển chung của xã hội, tìm cho mình chỗ đứng thực sự trong thế giới đang
ngày càng toàn cầu hoá một cách mạnh mẽ, chúng ta không thể không xem
xét một cách nghiêm túc thực trạng dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo
dục quốc dân trong những năm qua, từ đó nghiên cứu kĩ lƣỡng, hoạch định
một chiến lƣợc dạy học ngoại ngữ vừa khả thi, vừa đáp ứng đƣợc những yêu
cầu phát triển tuơng lai của nƣớc ta.
Xuất phát từ những yêu cầu cấp bách của thực tiễn, Đảng và Chính phủ
đã có nhiều chỉ thị đẩy mạnh việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo
75
dục quốc dân nƣớc ta, nhằm phục vụ tích cực và có hiệu quả sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.
Ngày 11 tháng 4 năm 1968, Thủ tƣớng Chính phủ đã có chỉ thị số 43/TTg
về phƣơng hƣớng và nhiệm vụ dạy và học ngoai ngữ ở các trƣờng Đại học,
trung học chuyên nghiệp và các trƣờng phổ thông, chỉ thị nêu rõ:"Dạy học
một ngoại ngữ ở các trường cấp II và phấn đấu dạy học hai ngoại ngữ ở các
trường cấp III, các thứ tiếng đựợc dạy là: Tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Trung
và tiếng Anh"
Ngày 7 tháng 9 năm 1972, Thủ tƣớng Chính phủ ra Quyết định số 251TTG về việc cải tiến và tăng cƣờng công tác dạy và học ngoại ngữ trong các
trƣờng phổ thống. Quyết định này tiếp tục khẳng định ngoại ngữ là môn học
cơ bản trong chƣơng trình phổ thông từ cấp II trở lên nhấn mạnh việc dạy học
đồng thời hai ngoại ngữ( một chính, một phụ) ở cấp III, mở các trƣờng
chuyên ngoại ngữ ở những nơi có điều kiện, thành lập một trung tâm chuyên
nghiên cứu việc dạy và học ngoại ngữ.
Điều 24 của Luật Giáo Dục (1998) cũng khẳng định vị trí quan trọng
của ngoại ngữ trong nội dung học vấn phổ thông và đề ra yêu cầu bảo đảm
cho học sinh có kiến thức cơ bản về ngoại ngữ.
Tháng 8 năm 2002, Chính phủ đã phê duyệt đề án" Đổi mới chƣơng
trình giáo dục phổ thông" của Bộ GD- ĐT cũng đã khẳng định ngoại ngữ là
môn học bắt buộc và tiếp tục dạy học tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng
Trung Quốc ở các trƣờng phổ thông, trong đó tiếng Anh là ngoại ngữ chủ yếu.
Đối với những vùng có nhu cầu và đủ điều kiện cần thiết thì có thể thay thế
việc dạy học tiếng Anh bằng một trong ba thứ tiếng còn lại nêu trên.
1.2. Định hướng phát triển đội ngũ giáo viên tiếng Pháp của tỉnh Bắc
Giang
Bắc Giang là một tỉnh miền núi nằm cách thủ đô Hà Nội 50 km về phía
Bắc, diện tích tự nhiên 3882,2 km2( Trung du chiếm 10,5%, miền núi chiếm
76
89,5%). Toàn tỉnh có 9 huyện và 1 thành phố trong đó có 6 huyện miền núi và
1 huyện vùng cao( Sơn Động), 229 xã, phƣờng, thị trấn.
Hệ thống giáo dục Bắc Giang tƣơng đối hoàn chỉnh với các ngành học
từ mầm non, phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp. Quy mô, loại hình trƣờng
lớp đƣợc củng cố, mở rộng phù hợp với điều kiện kinh tế của địa phƣơng,
đảm bảo yêu cầu chất lƣợng giáo dục. Hiện có 47 trƣòng THPT(34 trƣờng
THPT công lập, 10 trƣờng dân lập, 2 trƣờng tƣ thục); 1.495 lớp, 69.298 học
sinh.
Từ nhiều thập kỷ qua, trong chƣơng trình giáo dục phổ thông, bộ môn
ngoại ngữ đã đƣợc liên tục giảng dạy, và vị trí của môn học này ngày càng
đƣợc khẳng định trong đó có tiếng Pháp. Hiện nay, ngoại ngữ đƣợc coi là bộ
môn văn hoá cơ bản có tầm quan trọng nhƣ những môn học khác. Hơn thế
nữa, ngày nay khi nhà nƣớc ta thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa thì vai
trò của môn ngoại ngữ càng trở nên quan trọng hơn trong mọi cấp học. Tại sở
GD- ĐT Bắc Giang, tuy không nhiều nhƣng tiếng Pháp chƣa bị suy giảm
mạnh nhƣ tiếng Nga trƣớc sự phát tiển nhƣ vũ bão của tiếng Anh. Số trƣờng
THPT có dạy tiếng Pháp ở Bắc Giang không đƣợc tăng lên nhƣng vẫn đƣợc
duy trì. Trong năm học 2006- 2007, việc giảng day môn tiếng Pháp thực hiện
theo các chƣơng trình: tiếng Pháp ngoại ngữ 1, tiếng Pháp ngoại ngữ 2 và
chuơng trình tiếng Pháp cho các lớp chuyên, cụ thể nhƣ sau:
Bảng15: Quy mô đào tạo tiếng Pháp bậc THPT ở Bắc Giang.
Tiếng Pháp NN 1
Tiếng Pháp NN 2 Tiếng Pháp chuyên
SỐ TRƢỜNG
06
02
01
SỐ LỚP
65
20
03
SỐ HỌC SINH
3055
750
80
77
Nguồn: Trường THPT Chuyên tỉnh Bắc Giang
Năm học 2006- 2007, giáo dục Bắc Giang đang nỗ lực phấn đấu thực
hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm trong đó có công tác quản lý, bồi dƣỡng và
phát triển đội ngũ giáo viên nói chung và đội ngũ giáo viên dạy ngoại ngữ nói
riêng. Tại các trƣờng THPT trên toàn tỉnh, do xu thế phát triển của xã hội nên
gần nhƣ toàn bộ học sinh đầu cấp học này đều chọn tiếng Anh. Do vậy ngay
từ đầu năm học mới, sở GD&ĐT đã có văn bản hƣớng dẫn thực hiện nhiệm
vụ năm học 2006- 2007 ghi rõ: Duy trì các lớp tiếng Pháp ngoại ngữ 1 tại các
trƣờng THPT đã có, khuyến khích các trƣờng khác tổ chức dạy tiếng Pháp
ngoại ngữ 2 cho học sinh có nguyện vọng đặc biệt tiến hành tại trƣờng THPT
Yên Dũng số 1 và trƣờng THPT Hiệp Hoà I. Tiếp tục thực hiện tốt chƣơng
trình SGK thí điểm của dự án tăng cƣờng tiếng Pháp và bằng tiếng Pháp, dần
dần coi đây là ngoại ngữ 2 đƣợc dạy bắt buộc cho học sinh trong trƣờng
THPT. Đa dạng hoá hình thức dạy học ngoại ngữ khác, khai thác sự hợp tác,
hỗ trợ của các lực lƣợng xã hội và tổ chức việc dạy và học ngoại ngữ ngoài
nhà trƣờng để vừa tiết kiệm, vừa đạt hiệu quả.
Công văn hƣớng dẫn cũng đã nêu: Trên cơ sở dự báo số học sinh và giáo
viên dạy các thứ tiếng theo nhu cầu của xã hội, của cá nhân ngƣời học, phân
bố lƣợng giáo viên cần đào tạo và bồi dƣỡng cho cả cấp học trong từng năm
đối với các trƣờng THPT khác nhau. Củng cố và mở rộng khả năng đào tạo và
bồi dƣỡng giáo viên ngoại ngữ để đạt chuẩn và phù hợp với chƣơng trình,
SGK mới. Xây dựng chƣơng trình đào tạo giáo viên có hai ngoại ngữ để họ có
thể dạy cả chƣơng trình bắt buộc và chƣơng trình tự chọn( ngoại ngữ 2). Sử
dụng, điều động đội ngũ giáo viên ngoại ngữ hiện có giữa các trƣờng một
cách hợp lý, có hiệu quả thông qua các biện pháp hành chính và chế độ chính
sách. Khi chƣa có ngân sách từ địa phƣơng chi lƣơng cho số giáo viên dạy
tiếng Pháp ngoại ngữ 2, để duy trì và phát triển số lƣợng các lớp học tiếng
Pháp cũng nhƣ số giáo viên dạy bộ môn này, các trƣờng THPT có thể huy
động sự đóng góp của học sinh hoặc quỹ của nhà trƣờng để chi lƣơng cho
78
những giáo viên có đạo đức nghề nghiệp tốt, có năng lực chuyên môn và tinh
thần trách nhiệm cao.
1.3. Các nguyên tắc
Các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên tiếng Pháp trong các trƣờng
THPT tỉnh Bắc Giang đƣợc căn cứ trên các nguyên tắc sau :
- Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống: Các biện pháp đƣợc đặt trong hệ
thống các mục tiêu, nhiệm vụ, các giải pháp của toàn bộ chiến lƣợc phát triển
GD- ĐT cũng nhƣ trong bối cảnh chung của Tỉnh và của các trƣờng THPT.
Hơn nữa các biện pháp phải có mối quan hệ biện chứng với nhau, biện pháp
này là cơ sở là điều kiện để thúc đẩy biện pháp kia, tất cả các biện pháp kết
hợp với nhau thành một hệ thống trong mối qua hệ chặt chẽ cộng lực
- Nguyên tắc bảo đảm tính nhất quán: Các biện pháp đƣợc xây dựng
trên cơ sở đƣợc đảm bảo sự nhất quán từ điều tra cơ bản, phân tích thực trạng,
xác định nhu cầu về số lƣợng, cơ cấu loại hình chất lƣợng đội ngũ giáo viên
đƣợc thống nhất trong mục tiêu, mục đích chung là phát triển đội ngũ giáo
viên phục vụ yêu cầu nâng cao chất lƣợng dạy và học ngoại ngữ trong bối
cảnh hiện nay của đất nƣớc.
- Nguyên tắc bảo đảm tính thực tiễn: Các biện pháp đƣợc đề ra phải sát
với nhóm đối tƣợng giáo viên theo từng điều kiện kinh tế- xã hội của địa
phƣơng cụ thể. Trên cơ sở phân tích kỹ thực trạng đội ngũ giáo viên dạy
ngoại ngữ và nguyên nhân dẫn đến thức trạng đó.
2. Một số biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên tiếng Pháp ở các truờng
THPT Bắc Giang
2.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với giáo viên tiếng Pháp
2.1.1.Mục tiêu
Trong chiến lƣợc phát triển giáo dục 2001-2010 về phần phát triển đội
ngũ giáo viên. Quyết định của thủ tƣớng Chính phủ có ghi" Điều chỉnh cơ cấu
79
đội ngũ giáo viên phổ thông....". Tháng 8 năm 2002, Chính phủ cũng đã phê
duyệt đề án" Đổi mới chƣơng trình giáo dục phổ thông" của Bộ Giáo dục và
Đào tạo. Đề án khẳng định ngoại ngữ là môn học bắt buộc và tiếp tục dạy học
tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc ở các trƣờng phổ thông.
Đảm bảo sự liên tục và hiệu quả của việc dạy và học ngoại ngữ thứ nhất( bắt
buộc) và ngoại ngữ thứ hai( tự chọn).
Tuy nhiên, hiện nay có nhiều vấn đề về đội ngũ giáo viên ngoại ngữ ở
các trƣờng phổ thông trong tỉnh. Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu thừa và
thiếu cục bộ. Rất nhiều trƣờng tuyển một cách ồ ạt giáo viên tiếng Anh làm
mất đối nghiêm trong về tỷ lệ biên chế giáo viên đối với các thứ tiếng khác
trong đó có tiếng Pháp. Trong khi mà số giáo viên tiếng Nga, Pháp, Trung
đƣợc đào tạo cơ bản, chính qui thì không có lớp để dạy và số đông sinh viên
sau khi tốt nghiệp không tìm đƣợc việc làm
Trƣớc sự phát triển tăng quy mô về số lƣợng trƣờng lớp ở bậc THPT tại
sở GD- ĐT Bắc Giang và trƣớc xu thế hội nhập của đất nƣớc, đòi hỏi phải
tăng số lƣợng đội ngũ giáo viên cũng nhƣ sự hợp lý về cơ cấu ngoại ngữ đƣợc
dạy đảm bảo chất lƣợng, để tránh tình trạng tuỳ tiện, lộn xộn, lãng phí thì cơ
chế tuyển dụng, chính sách giáo viên tiếng Pháp cần đƣợc đặc biệt quan tâm.
Đối với giáo dục THPT ở Bắc Giang, muốn phát triển đội ngũ giáo viên
dạy tiếng Pháp trƣớc hết cần có kế hoạch sử dụng hợp lý đội ngũ giáo viên
hiện có, khắc phục tình trạng những giáo viên tiếng Pháp đƣợc đào tạo bàn
bản, chính qui chƣa đƣợc sử dụng, nhằm đảm bảo chất lƣợng toàn diện cho
con em các địa phƣơng dân tộc trong tỉnh đƣợc học từ một đến hai ngoại ngữ
trong nhà trƣờng phổ thông.
2.1.2. Nội dung, cách thực hiện
Từ năm 2004 đến nay, sở GD- ĐT Bắc Giang phối kết hợp với sở Nội vụ
cải tiến hình thức xét tuyển giáo viên trên cơ sở, nhu cầu của các trƣờng
THPT để tuyển dụng bổ sung đội ngũ giáo viên có phẩm chất, kiến thức, năng
lực sƣ phạm, đáp ứng yêu cầu định mức cũng nhƣ nguyện vọng học ngoại
80
ngữ từ phía học sinh và gia đình các em. Hàng năm, trên cơ sở chỉ tiêu biên
chế đƣợc giao và kế hoạch phát triển qui mô trƣờng lớp, Sở GD- ĐT đã thực
hiện công tác điều động, thuyên chuyển nhằm duy trì, phát triển và điều hòa
chất lƣợng giáo dục cũng nhƣ cơ cấu giáo viên, đồng thời tổ chức tuyển dụng
bổ sung, ký hợp đồng giáo viên cho các trƣờng có nhu cầu học hai ngoại ngữ
trên địa bàn tỉnh.
2.1.3.Điều kiện thực hiện
Đây là một công tác quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình phát đội ngũ
giáo viên theo hƣớng bảo đảm cho việc tăng nhanh về số lƣợng với cơ cấu
hợp lý và chất lƣợng cao. Vì vậy, công tác cần thực hiện tốt một số yêu cầu
sau:
- Việc tuyển dụng phải tuân thủ một cách chặt chẽ nghiêm túc quá trình
công tác quản lý nhân sự tức là từ khâu lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ
đạo, kiểm tra, đánh giá ... bảo đảm đúng Luật giáo dục 2005 là" đƣợc giảng
dạy theo chuyên ngành đào tạo" khắc phục tình trạng đƣa giáo viên dạy tiếng
Pháp sang dạy tiếng Anh hoặc các môn học khác
- Có chế độ, chính sách hợp lý cho giáo viên ngoại ngữ: Chính sách về
định mức lao động, chế độ công tác, chính sách về lƣơng, phụ cấp, về học tập
bồi dƣỡng
- Ngành Giáo dục cần xây dựng kế hoạch tuyển chọn mang tính chiến
lƣợc nhằm đảm bảo cơ cấu ngoại ngữ đƣợc dạy( Bao nhiêu phần trăm cho
tiếng Anh, bao nhiêu cho tiếng Pháp) nhằm tuyển chọn đƣợc một đội ngũ giáo
viên vừa đáp ứng đƣợc yêu cầu trƣớc mắt vừa đảm bảo định hƣớng phát triển
lâu dài của địa phƣơng.
- Chú trọng việc tuyển dụng những giáo viên có hai bằng ngoại ngữ để
những giáo viên này vừa có thể dạy chuyên sâu môn học vừa có thể đảm nhận
dạy ngoại ngữ khác khi cần thiết.
- Cần có chính sách ƣu tiên tuyển dụng các đối tƣợng là ngƣời địa phƣơng
đã học tại các lớp chuyên tiếng Pháp của tỉnh hoặc những giáo viên tiếng
81
Pháp đã có bằng thạc sĩ, những giáo viên đƣợc đào tạo tại Pháp. Có nhƣ vậy
chất lƣợng giáo dục mới đƣợc đảm bảo và đáp ứng đuợc sự mong đợi của xã
hội, nhất là từ phía phụ huynh học sinh trong bối cảnh chọn lọc gắt gao nhƣ
hiện nay của xã hội.
- Vì việc tuyển dụng giáo viên phụ thuộc vào chỉ tiêu biên chế hàng năm do
UBND tỉnh giao cho ngành và vào tổng quỹ lƣơng đƣợc giao đầu năm nên sở
GD&ĐT nên có kế hoạch cho các trƣờng về tỷ lệ những ngoại ngữ đƣợc dạy
cũng cơ cấu giáo viên dạy các ngoại ngữ khác nhau. Trên cơ sở đó tham mƣu,
phối hợp với các cấp có thẩm quyền về cơ chế, chính sách giáo viên tiếng
Pháp.
- Việc hợp đồng tuyển dụng giáo viên tiếng Pháp của sở GD- ĐT Bắc
Giang những năm gần đây chủ yếu là đáp ứng yêu cầu của sự phát triển dạy
học 2 ngoại ngữ trong một số trƣờng THPT. Nhƣng do chỉ là môn học tự
chọn nên số trƣờng dạy hai ngoại ngữ và tiếng Pháp ngoại ngữ 2 còn quá ít,
cơ cấu giáo viên cũng chƣa đƣợc quan tâm thoả đáng.
2.2. Lập kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên tiếng Pháp ở Bắc Giang
2.2.1. Mục tiêu
- Thực hiện mục tiêu chung theo quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về GDĐT:" Nhằm đào tạo nguồn nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức,
có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ năng động và sáng tạo, có đạo đức
cách mạng, tinh thần yêu nƣớc, yêu CNXH. Nhà trƣờng đào tạo thế hệ trẻ
theo xu hƣớng toàn diện và có năng lực chuyên môn sâu. Có ý thức và khả
năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ".
- Lập kế hoạch đào tạo phát triển đội ngũ giáo viên còn hƣớng tới mục tiêu
đáp ứng đủ yêu cầu về số lƣợng, nâng cao chất lƣợng chuẩn hoá đội ngũ giáo
viên theo quy định của Bộ Giáo dục- Đào tạo về định mức. Xây dựng cơ sở
khoa học cho việc hoạch định các chủ trƣơng kế hoạch phát triển của ngành
giáo dục- đào tạo trong mối tổng quan nền kinh tế- xã hội của tỉnh nhà.
82
- Lập kế hoạch phát triển GD- ĐT nhằm phát huy các tiềm lực trong ngành
của toàn xã hội và những triển vọng của địa phƣơng, để từng bƣớc đƣa sự
nghiệp GD- ĐT ngày càng gắn bó với sự phát triển KT- XH trong tình hình
đất nƣớc hội nhập và đổi mới hiện nay.
2.2.2. Nội dung, cách thức thực hiện
- Các cấp quản lý cần lập kế hoạch tổng thế và chi tiết về công tác đào tạo
phát triển đội ngũ giáo viên THPT cho đơn vị mình trong từng thời gian và
nhiệm vụ cụ thể.
- Để công tác lập quy hoạch, đào tạo phát triển đội ngũ giáo viên có hiệu
quả mang tính chính xác và khả thi, một trong những căn cứ xác đáng trƣớc
hết phải nói đến công tác dự báo quy mô phát triển số lƣợng học sinh và việc
quy hoạch mạng lƣới trƣờng, lớp từng giai đoạn.
- Trong quá trình lập kế hoạch cần chú ý đến các yếu tố của đội ngũ nhƣ:
Số lƣợng, trình độ, cơ cấu, giới tính, độ tuổi .... Để đảm bảo tính cân đối hợp
lý của đội ngũ.
2.2.3.Điều kiện thực hiện
- Để giúp đội ngũ cán bộ quản lý các đơn vị làm tốt công tác dự báo cơ sở
để lập kế hoạch đào tạo phát triển đội ngũ giáo viên tiếng Pháp một cách có
hiệu quả đáp ứng đƣợc chiến lƣợc dạy và học tiếng Pháp từ nay đến 2010 là
tăng gấp đôi lƣợng học sinh bậc trung học đƣợc học tiếng Pháp, trên cơ sở đó
cũng tăng gấp đôi số luợng giáo viên dạy tiếng Pháp thì sở GD- ĐT cần phải
mở lớp tập huấn bồi dƣỡng nghiệp vụ quản lý cung cấp cho đội ngũ cán bộ
quản lý các nguyên tắc, phƣơng pháp nghiên cứu quy trình của công tác dự
báo.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh và sở GD- ĐT cần phân bổ cơ cấu ngoại ngữ đƣợc
dạy, trên cơ sở đó phân bổ cơ chế tuyển dụng đối với giáo viên dạy bộ môn
này.
83
- Hàng năm cần phân bổ và dành tỷ lệ ngân sách đào tạo thoả đáng cho
công tác đào tạo giáo viên nói chung và ƣu tiên giáo viên dạy ngoại ngữ nói
riêng.
Tóm lại : Để đảm bảo cho việc lập kế hoạch đào tạo phát triển đội ngũ
giáo viên vừa có tính khả thi cao, vừa có hiệu quả đối với GD- ĐT, các cấp
quản lý cần dựa trên quan điểm coi công tác này là một trong những mục tiêu
nhiệm vụ quan trọng của đơn vị mình, cần phải đƣợc thực hiện một cách chặt
chẽ hợp lý và đƣợc công khai rộng rãi để có sự tham gia tích cực của các ban
ngành có liên quan và của chính đội ngũ giáo viên dạy tiếng Pháp .
Lập kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên tiếng Pháp bậc THPT cần phải :
- Phù hợp với chiến lƣợc quy hoạch phát triển ngành GD- ĐT cả tỉnh.
- Phù hợp với quy hoạch tổng thế phát triển KT- XH đến năm 2010 và quy
hoạch ngành khác có liên quan của tỉnh.
- Phù hợp với quy mô, cơ cấu phân bố dân cƣ
- Kết hợp trƣớc mắt và lâu dài, có tính toán bƣớc đi cụ thể và cần thiết, xác
định rõ những vấn đề bức xúc, trọng điểm đầu tƣ, thứ tự ƣu tiên của các ngoại
ngữ đƣợc dạy : Anh- Pháp- Trung- Nga.. .
2.3. Tổ chức bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn nghiệp vụ cho đội
ngũ giáo viên tiếng Pháp ở Bắc Giang
Nghị quyết TW 2(khoá VIII) đã khẳng định:" Xây dựng đội ngũ giáo viên,
tạo động lực cho ngƣời dạy, ngƣời học" và khẳng định lại rằng" giáo viên là
nhân tố quyết định chất lƣợng giáo dục và đã đƣợc xã hội tôn vinh", kèm theo
đó là một loạt giải pháp, biện pháp cụ thể nhằm khai thác phục vụ các mặt yếu
kém trong công tác đào tạo, bồi dƣỡng giáo viên, nâng cao địa vị và uy tín của
giáo viên. Chính vì vậy, muốn xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên tiếng
Pháp trƣờng THPT có phẩm chất tốt về chính trị đạo đức, giỏi về chuyên môn
thì phải đẩy mạnh và nâng cao chất lƣợng công tác bồi dƣỡng và tự bồi dƣỡng.
84