Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 137 trang )
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC Ở CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ
1.1.
Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Ngoài nước
Trên thế giới, các nước có nền giáo dục phát triển đều chú trọng đến việc
ứng dụng CNTT như: Nước Mỹ, Australia, Canađa, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore, ... Để ứng dụng CNTT được như ngày nay các nước này đã trải qua
rất nhiều các chương trình quốc gia về tin học hoá cũng như ứng dụng CNTT
vào các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
đặc biệt là ứng dụng vào khoa học công nghệ và giáo dục.
Tại Mỹ và các nước Châu Âu đã có những nghiên cứu về quản lý ứng
dụng CNTT trong dạy học, nhận được sự ủng hộ và các chính sách trợ giúp
của Chính phủ ngay từ cuối những thập niên 90.
Một số quốc gia ở Châu Á đặc biệt là các nước có nền giáo dục phát
triển đã có những biện pháp quản lý ứng dụng CNTT trong giáo dục như:
Năm 1981 Singapore thông qua một đạo luật về Tin học hóa Quốc gia
quy định ba nhiệm vụ:
- Một là, thực hiện việc tin học hóa mọi công việc hành chính và hoạt
động của Chính phủ.
- Hai là, dạy tin học ở trường phổ thông; Ứng dụng CNTT trong dạy
học; Quản lý ứng dụng CNTT trong dạy học; Ứng dụng CNTT trong quản lý
trường học.
- Ba là, phát triển và thúc đẩy công nghiệp dịch vụ tin học ở Singapore.
Một Ủy ban máy tính Quốc gia (NCB) được thành lập để chỉ đạo công tác đó.
Năm 1989 tại Philippin chiến lược phát triểnCNTT Quốc gia đã được
công bố. Bản chiến lược xác định: CNTT phục vụ phát triển kinh tế xã hội đất
nước, dạy và học tin học, ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy học.
Năm 1980 kế hoạch 10 năm phát triển CNTT ở Đài Loan đã được công
bố. Kế hoạch này đề cập đến cấu trúc tổ chức của CNTT ở trong nước và
những nội dung mà chính phủ cần làm để phát triển CNTT, ứng dụng CNTT
trong các ban ngành xã hội. Đặc biệt là ứng dụng CNTT trong giáo dục, tiếp
tục khả năng cạnh tranh thành công trên thị trường thế giới.
Ở Australia vào tháng 3 năm 2000, Hội đồng Bộ trưởng đã ủng hộ
hướng đi được trình bày trong tài liệu “Cơ cấu chiến lược phát triển thúc đẩy
ứng dụng CNTT, quản lý ứng dụng CNTT” tài liệu này bao gồm hai mục tiêu
giáo dục trường học bao quát cho nền kinh tế thông tin, đó là:
Một là: Tất cả học sinh tốt nghiệp phổ thông đều ứng dụng được
CNTT và ý thức được tác động của CNTT&TT đối với xã hội.
Hai là: Ứng dụng CNTT trong dạy học và quản lý ứng dụng CNTT
trong dạy học tạo môi trường học tập cho học sinh.
1.1.2. Trong nước
Từ thập niên 90 của thế kỉ trước, vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin
vào dạy học là một chủ đề lớn được UNESCO chính thức đưa ra thành
chương trình hành động trước ngưỡng cửa của thế kỉ XXI. Ngoài ra,
UNESCO còn dự báo: công nghệ thông tin sẽ làm thay đổi nền giáo dục một
cách cơ bản vào đầu thế kỉ XXI.
Ở nước ta CNTT đã được ứng dụng vào trong quá trình dạy học từ
những năm 90 của thế kỷ trước. Và cho đến nay CNTT vẫn đang được nghiên
cứu, ứng dụng hết sức rộng rãi trong tất cả các cơ sở giáo dục từ Trung ương
đến địa phương. Đã có những đề tài nghiên cứu về ứng dụng CNTT trong dạy
học bước đầu thu được những kết quả khả quan, thúc đẩy việc ứng dụng
CNTT vào dạy học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo cũng đã có Chỉ thị 29/CT-Bộ GD&ĐT về "Tăng cường
giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành GD & ĐT
giai đoạn 2001 - 2005" và Chỉ thị 55/2008/CT- BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT về việc tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong
giáo dục giai đoạn 2008-2012 và chọn năm học 2008-2009 là "Năm học đẩy
mạnh ứng dụng CNTT", tạo bước đột phá về ứng dụng CNTT trong giáo dục
và tạo tiền đề ứng dụng và phát triển CNTT trong những năm tiếp theo.
Trong những năm qua việc ứng dụng CNTT trong quản lý hoạt động
dạy học đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Gần đây các hội
nghị, hội thảo hay trong các đề tài khoa học nghiên cứu về CNTT đã đề cập
nhiều đến vấn đề quản lý ứng dụng CNTT trong giáo dục và nâng cao chất
lượng dạy học:
- Hội thảo “Nâng cao chất lượng đào tạo” tại ĐHQG Hà Nội năm
2000.
- Hội thảo khoa học quốc gia lần thứ nhất về “Nghiên cứu phát triển và
ứng dụng CNTT” tháng 2/2003.
- Hội thảo khoa học “Nghiên cứu và triển khai E-Learning” do Viện
Công nghệ Thông tin (ĐHQG Hà Nội) và Khoa Công nghệ Thông tin (Đại
học Bách khoa Hà Nội) phối hợp tổ chức đầu tháng 3/2005 là hội thảo khoa
học về ứng dụng trong hệ thống giáo dục đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam.
- Hội thảo khoa học toàn quốc về CNTT “ Các giải pháp công nghệ và
quản lý trong ứng dụng CNTT vào đổi mới phương pháp dạy học” Trường
ĐHSP Hà Nội phối hợp với dự án giáo dục đại học tổ chức từ 9-10/12/2006
tại Trường ĐHSP Hà Nội. Những cuộc hội thảo này đều tập trung bàn về vai
trò của CNTT đối với giáo dục và các giải pháp nhằm thúc đẩy nhanh việc
ứng dụng CNTT vào dạy học. Nội dung cụ thể bao gồm:
+ Ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy học (phổ thông, đại
học.
+ Các giải pháp, quản lý phát triển ứng dụng CNTT trong đổi mới
phương pháp dạy học: chiến lược phát triển, kinh nghiệm quản lý, mô hình tổ
chức trường học điện tử, mô hình dạy học điện tử, . ..
+ Các kết quả ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học: xây dựng
và sử dụng phần mềm dạy học, kho tư liệu điện tử...
- Hội thảo “Ứng dụng CNTT trong giảng dạy ” ngày 12 tháng 01 năm
2011 dành cho cán bộ quản lý của các trường Trung cấp chuyên nghiệp do
Trường Trung cấp Âu Việt tổ chức .
- Hội thảo “ Ứng dụng CNTT trong quản lý giáo dục và phương pháp
dạy học” trong 2 ngày 13 và 14 tháng 4 năm 2011 tại Đông Triều do Sở
GD&ĐT tổ chức.
Trường Cao đẳng nghề KTCN Việt Nam - Hàn Quốc - Nghệ An với đề
tài “ Thí nghiệm thực hành ảo ứng dụng trong dạy nghề điện ô tô ”.
Các cuộc hội thảo trên đều tập trung bàn về vai trò của CNTT trong giáo
dục và các giải pháp đẩy nhanh việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
Có một số luận văn thạc sỹ khoa học nghiên cứu về quản lý việc ứng
dụng CNTT trong dạy học như:
Tác giả Đào Thị Ninh với đề tài: “Một số biện pháp quản lý ứng dụng
CNTT trong giảng dạy ở các trường THPT quận Cầu Giấy - Hà Nội”. Tác giả
đã lưu ý thực trạng quản lý ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở các trường
THPT trên địa bàn thành phố Hà Nội đã đạt được một số kết quả song còn có
bất cập. Qua đó đề ra một số biện pháp quản lý ứng dụng CNTT trong giảng
dạy ở các trường THPT quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Tác giả Phạm Trường Lưu, với đề tài: “Một số biện pháp quản lý hoạt
động dạy học có sử dụng đa phương tiện ở trường THCS”. Tác giả nhấn mạnh
môi trường đa phương tiện là môi trường học tập chủ yếu hiện nay. Giáo viên
cần ứng dụng CNTT hiệu quả thông qua môi trường dạy học ĐPT ; Đề ra
một số biện pháp quản lý ứng dụng CNTT trong dạy học và góp phần đổi mới
PPDH ở trường THCS.
Tác giả Trần Thị Đản với đề tài: “Một số biện pháp tổ chức triển khai
việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy của Hiệu trưởng trường THCS Văn Lang
Thành phố Việt trì, tỉnh Phú Thọ”. Những biện pháp mà tác giả đề ra là cần
thiết và có khả năng thực hiện trong điều kiện của trường THCS Văn Lang
thành phố Việt Trì.
Qua tổng quan nghiên cứu vấn đề thấy rằng các hội thảo, các đề tài về ứng
dụng CNTT từ trước đến nay, đều khẳng định vai trò của ứng dụng CNTT trong
dạy học và vai trò quan trọng của các biện pháp quản lý ứng dụng CNTT trong
dạy học. Thực tế việc đưa CNTT vào hoạt động dạy học còn tồn tại nhiều vấn đề
cần được tiếp tục nghiên cứu giải quyết. Trình độ tin học cơ bản của đội ngũ giáo
viên còn hạn chế và gặp nhiều lúng túng khi thiết kế GADHTC có ứng dụng
CNTT. Cho đến nay, ở các trường Cao đẳng nghề nói chung và Trường Cao
Đẳng nghề Công nghệ và Nông Lâm Phú Thọ nói riêng đã áp dụng rất nhiều
biện pháp quản lý hoạt động dạy học nhưng chưa có công trình nghiên cứu
nào đề cập đến vấn đề quản lý ứng dụng CNTT trong dạy học. Việc nghiên
cứu đề xuất các biện pháp quản lý ứng dụng CNTT trong dạy học để nâng cao
chất lượng đào tạo nghề ở Trường Cao đẳng nghề Công nghệ và Nông lâm
Phú Thọ đang là cần thiết.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
1.2.1.1. Khái niệm:
Khái niệm “Quản lý” được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau dựa
trên cơ sở những cách tiếp cận khác nhau, vừa là khoa học vừa là nghệ thuật
đang là vấn đề thu hút nhiều sự quan tâm. Sau đây là một số định nghĩa về
“Quản lý ”:
Theo H.Fayol (1841-1925), kỹ sư người Pháp - Ông quan niệm: “ Quản
lý hành chính là kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra”. Trong
học thuyết quản lý của mình H.Fayol đưa ra 5 chức năng cần thiết của một
nhà quản lý là: Dự báo và lập kế hoạch; Tổ chức; Điều khiển; Phối hợp; Kiểm
tra.
Theo F.W.Tay Lor (Nhà quản lý người Mỹ 1856 - 1915) người có học
thuyết chú trọng vào nhiệm vụ cho rằng “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng,
chính xác cái gì cần làm và làm cái đó bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”.
Theo Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có
mục tiêu, quán lý là một hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt
được mục tiêu nhất định”. ( 22, tr.8)
Theo tác giả Trần Kiểm: “ Quản lý là những tác động chủ thể quản lý
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các
nguồn nhân lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (Chủ yếu là
nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất
và quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục đích đến tập thể người –
thành viên của hệ nhằm làm cho hệ vận hành thuận lợi và đạt mục đích dự
kiến” (19, tr.8)
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung là
khách thể quản lý) nhằm thực hiện dược những mục tiêu dự kiến” [ 24, tr. 24].
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý là
hoạt động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến
khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức
vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [5,tr.9]
Còn theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Bản chất của hoạt động quản lý là
nhằm làm cho hệ thống vận hành theo mục tiêu đặt ra và tiến đến các trạng
thái có tính chất lượng mới.
Quản lý = Quản + Lý
Trong đó : - Quản là coi giữ, cầm nắm tạo ra sự ổn định .
- Lý là chỉnh sửa, sắp xếp, đổi mới để phát triển.
Tuy nhiên có ổn định mà không phát triển thì dẫn đến trì trệ, lạc hậu, còn
có phát triển mà không ổn định tất yếu dẫn đến rối ren. Trong ổn định tạo
mầm mống phát triển ; phát triển giữ được hạt nhân cho ổn định. Vì vậy quản
lý là vừa chống lạc hậu và chống sự lạc điệu làm cho tổ chức luôn giữ được
sự ổn định và phát triển”. [2,tr.15]
Quản lý là hoạt động nhằm đảm bảo sự hoàn thành công việc thông qua
sự nỗ lực của người khác. Theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích
của con người. Quản lý với tư cách là một hành động, có thể định nghĩa:
Quản lý là quá trình tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể
quản lý lên khách thể quản lý bằng việc vận dụng các chức năng quản lý,
nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức.
1.2.1.2. Chức năng quản lý
Chức năng quản lý là những hình thức thực hiện những tác động của
chủ thể đến đối tượng quản lý thông qua những nhiệm vụ mà chủ thể cần
được thực hiện trong quá trình quản lý. Nhìn chung các tác giả khác nhau đều
thống nhất nêu lên các chức chức năng quản lý như sau:
- Chức năng kế hoạch
Chức năng kế hoạch hóa là xác định mục tiêu cho bộ máy, xác định
các bước đi để đạt được mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ
chức và các con đường, các biện pháp cách thức để đạt tới mục tiêu. Để vạch
ra được mục tiêu và xác định được các bước đi cần có khả năng dự báo, tức là
đòi hỏi nhà quản lý phải có khả năng lường trước sự phát triển của các sự vật
(của bộ máy). Những nội dung chủ yếu của kế hoạch là:
- Xác định , hình thành mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức.
- Xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn , có tính cam kết) về các nguồn
lực của tổ chức để đạt được mục tiêu.
Quyết định xem những hoạt động nào cần thiết để đạt được mục tiêu đó.
Như vậy, có thể hiểu, chức năng kế hoạch hoá là việc đưa toàn bộ hoạt
động quản lý vào công tác kế hoạch, trong đó chỉ rõ các bước đi, biện pháp
thực hiện và bảo đảm các nguồn lực để đạt tới mục tiêu của tổ chức.
- Chức năng tổ chức
Khi người quản lý đã lập xong kế hoạch, họ cần phải chuyển hóa những ý
tưởng ấy thành những hoạt động hiện thực. Tổ chức là quá trình hình thành
nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ
chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục
tiêu tổng thể của tổ chức. Người quản lý phải phối hợp, điều phối tốt các
nguồn nhân lực của tổ chức.
- Chức năng chỉ đạo
Sau khi kế hoạch đã được lập, cơ cấu bộ máy đã hình thành, nhân sự đã
được tuyển dụng thì phải có người đứng ra lãnh đạo, dẫn dắt tổ chức. Đó là
quá trình liên kết, liên hệ với người khác, hướng dẫn và động viên họ hoàn
thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức. Tất nhiên
việc lãnh đạo không chỉ bắt đầu sau khi việc lập kế hoạch và thiết kế bộ máy
đã hoàn tất, mà nó xuyên suốt trong hoạt động quản lý.
- Chức năng kiểm tra
Chức năng kiểm tra diễn ra ở giai đoạn cuối cuối cùng của chu trình
quản lý, là quá trình đánh giá và điều chỉnh nhằm đảm bảo cho các hoạt động
đạt tới các mục tiêu của tổ chức, chức năng kiểm tra bao gồm những nhiệm
vụ chính sau đây :
+ Người quản lý đặt ra các chuẩn mực thành đạt của hoạt động.
+ Đánh giá, đối chiếu, đo lường kết quả, sự thành đạt so với chuẩn mực
đã đặt ra.
+ Điều chỉnh những sai lệch.
+ Hiệu chỉnh , sửa lại chuẩn mực nếu cần.
Trong những chức năng trên, mỗi chức năng đảm nhận vị trí, vai trò
nhất định, song các chức năng này có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau.
Như vậy, chức năng quản lý là những vấn đế hết sức cơ bản của lý luận
về quản lý, nó giữ một vai trò quan trọng trong thực tiễn quản lý. Chức năng
quản lý và chu trình quản lý thể hiện đầy đủ nội dung hoạt động của chủ thể
quản lý đối với khách thể quản lý. Vì vậy, việc thực hiện đầy đủ các giai đoạn
quản lý trong một chu trình là cơ sở đảm bảo cho hiệu quả của toàn bộ hệ
thống được quản lý. Việc thực hiện chu trình quản lý có hiệu quả hay không
là nhờ có thông tin. Thông tin vừa là điều kiện, vừa là phương tiện tổng hợp
các chức năng trên.
Sơ đồ 1.1. Các chức năng quản lý
Kế hoạch
Kiểm tra
Thông TIN
THÔNG tin
Tổ chức
Chi đạo
Nhìn về hình thức, quá trình quản lý được diễn ra tuần tự từ chức năng
kế hoạch đến các chức năng tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Song, trong thực tế
các chức năng đan xen, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình thực hiện. Sự liên kết
giữa chức năng cơ bản này là thông tin quản lý và các quyết định quản lý.
1.2.2. Quản lý giáo dục và quản lý nhà trường
1.2.2.1. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một chức năng của xã hội loài người và quản lý giáo dục là
một loại hình của quản lý xã hội. Có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý
giáo dục:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII
cũng đã viết: “Quản lý giáo dục là sự tác động của chủ thể quản lý tới khách
thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết
quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất”. [23,tr.119]
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục nói chung là thực hiện
đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa
nhà trường vận hành tiến tới mục tiêu đào tạo theo nguyên lý giáo dục”.
[2, tr 25]
Trong quan điểm giáo dục hiện đại của các tác giả Nguyễn Quốc Chí –
Nguyễn Thị Mỹ Lộc, chỉ rõ: “QLGD là những tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở mọi cấp khác nhau đến tất
cả các mắt xích của toàn bộ hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự hình thành
nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật của xã
hội cũng như các quy luật của quá trình giáo dục về sự phát triển thể lực, trí lực
và tâm lý của con người. Chất lượng của giáo dục chủ yếu do nhà trường tạo
nên, bởi vậy khi nói đến quản lý giáo dục phải nói đến quản lý nhà trường cùng
với hệ thống quản lý giáo dục”. [5, tr.71]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác
động có mục đích, có kế hoạch hợp qui luật của chủ thể quản lý, nhằm làm
cho hệ vận hành theo đường lối giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính
chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy
học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên
trạng thái mới về chất” [24,tr.24]
Theo tác giả Nguyễn Trọng Hậu “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng
quan là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh
công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Ngày nay, với sứ
mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn
ở thế hệ trẻ mà là cho mọi người; tuy nhiên trọng tâm vẫn là giáo dục thế hệ
trẻ cho nên quản lý giáo dục được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục
quốc dân, các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân”.[15,tr. 65 ]
Như vậy, quản lý giáo dục về thực chất là quản lý nhà trường và quản
lý các hoạt động diễn ra trong nhà trường và các cơ sở giáo dục khác...
Từ những định nghĩa trên cho thấy: QLGD là hệ thống những tác động
có mục đích, có kế hoạch, có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý
mà chủ yếu nhất là quá trình dạy học và giáo dục ở các cơ sở giáo dục.
1.2.2.2. Quản lý nhà trường
Trường học là hình thức thể hiện của hệ thống giáo dục trên qui mô toàn
xã hội, là nơi diễn ra hầu hết các hoạt động giáo dục của hệ thống giáo dục
quốc dân.
Nhà trường là một thiết chế xã hội, là đơn vị cấu trúc cơ bản của hệ
thống giáo dục quốc dân. Do đó, quản lý nhà trường là quản lý thiết chế của
hệ thống giáo dục, đó chính là quản lý giáo dục ở cấp độ vi mô, cấp độ một
đơn vị cấu trúc cơ sở của hệ thống giáo dục quốc dân.
Quản lý nhà trường là hoạt động của các cơ quan quản lí nhằm tập hợp
và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục
khác huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo trong nhà trường.
Theo điều 48 luật giáo dục 2005 “Nhà trường trong hệ thống giáo dục
quốc dân thuộc mọi loại hình được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của
nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục”.[25,tr.42]
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là hoạt động của
các cơ quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của GV, HS và
các lực lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo
dục để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà trường”.[31, tr.205]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý nhà trường là tập hợp
những tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể GV, HS và cán bộ
khác, nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội
đóng góp và do lao động xây dựng vốn tự có. Hướng vào việc đẩy mạnh mọi
hoạt động của nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ".
[24, tr.43]