Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 116 trang )
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐÀO TẠO CAO ĐẲNG NGHỆ
THUẬT.
Sơ lƣợc về lịch sử nghiên cứu quản lý đào tạo
- Nghiên cứu ngoài nƣớc
Thời kỳ tiền tƣ bản chủ nghĩa (thế kỷ XV - XVIII) lần đầu tiên trong lịch sử
giáo dục thế giới, nhà giáo dục Tiệp Khắc J.A.Cômenxky (1592 - 1670) đã đặt nền
móng cho lý luận dạy học ở nhà trƣờng và xây dựng thành một hệ thống tri thức
khoa học trong tác phẩm "Lý luận dạy học vĩ đại" (1632). Ông là ngƣời đặt nền
móng cho hệ thống các nhà trƣờng, tạo cơ sở ra đời của “tổ chức hệ thống giáo dục”
trên quy mô toàn xã hội - vấn đề quan trọng hàng đầu trong quản lý giáo dục.
Cômenxki đã đề xuất một hệ thống các trƣờng học dành cho các lứa tuổi khác nhau.
Ông cho rằng: "Nhà trƣờng phải là nơi vui tƣơi cho các em. Bao nhiêu kiến thức
dạy các em phải kết hợp thành một hệ thống cân đối, hài hoà". Ông là ngƣời đầu
tiên trong lịch sử giáo dục học đã nhấn mạnh đến sứ mệnh cao cả của ngƣời giáo
viên đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cao đối với họ nhƣ là một tấm gƣơng trong việc
giáo dục giảng dạy học sinh. Nhắc đến nhà giáo dục - thực dụng chủ nghĩa nổi tiếng
của phƣơng tây, John Dewey (Mỹ, 1859 - 1952) là nhắc đến những đóng góp để
hình thành nên quan niệm về mối liên hệ giữa nhà trƣờng và xã hội cũng nhƣ nhận
định của ông về một nền giáo dục hƣớng tới một kết quả cụ thể - dẫu rằng có dấu ấn
của chủ nghĩa thực dụng. Tuy vậy, cho đến đầu thế kỷ XX, vẫn chƣa có một công
trình nghiên cứu độc lập về quản lý giáo dục.
Đầu những năm 50 của thế kỷ XX trong hàng loạt những công trình nghiên
cứu có tính hàn lâm của các nhà khoa học Liên Xô cũ, đã xuất hiện các luận văn
tiến sĩ, phó tiến sĩ về những khía cạnh khác nhau của quản lý giáo dục. Trong số
những công trình đó, có những công trình nghiên cứu sâu sắc về “thanh tra giáo
dục”, “kế hoạch hoá giáo dục”. Năm 1956, cuốn “Quản lý trƣờng học”
(Skolovedenie) của A. Pôpốp, một nhà hoạt động sƣ phạm và quản lý giáo dục của
Liên Xô cũ lần đầu xuất hiện đƣợc coi nhƣ một tài liệu hoàn chỉnh đầu tiên về quản
lý giáo dục. Tiếp những năm sau đó, nhiều nhà nghiên cứu khoa học giáo dục đã
cho ra đời những tài liệu vừa có tính khoa học, vừa có tính thực tiễn về quản lý hai
11
quá trình sƣ phạm chủ yếu diễn ra trong nhà trƣờng: quản lý quá trình dạy học và
quản lý giáo dục. Các tác giả đã dày công nghiên cứu, tổng kết những thành tựu
nghiên cứu những vấn đề quản lý giáo dục, quản lý nhà trƣờng nhƣ: Những cơ sở lý
luận của quản lý nhà trƣờng (1983), Những cơ sở của quản lý nội bộ trƣờng học
(1987), Kế hoạch hoá và quản lý giáo dục vi mô (1990), Quản lý giáo dục – lý
thuyết nghiên cứu và thực tiễn (1996).
- Nghiên cứu trong nƣớc
Kế thừa và phát huy các giá trị lý luận và thực tiễn những thành tựu nghiên
cứu về quản lý giáo dục của một số nƣớc trên thế giới, trong vòng hơn một thập
kỷ qua, ở nƣớc ta đã có một số công trình nghiên cứu mới và nhiều bài viết bàn
về quản lý giáo dục, quản lý nhà trƣờng của các tác giả tiêu biểu đƣợc đăng tải
trên các tạp chí chuyên ngành, nhiều cuộc hội thảo quốc gia bàn về đổi mới quản
lý giáo dục đƣợc tổ chức.
Tác giả Vũ Ngọc Hải với cách tiếp cận mới về quản lý giáo dục nhƣ: Các
mô hình về quản lí giáo dục. (số 6 (54) năm 2003), Cơ sở lí luận và thực tiễn của tư
duy phát triển giáo dục ở nước ta. (số 2 (74) và 3 (75) năm 2005) đăng trên tạp chí
Phát triển Giáo dục hay như Cách nhìn mới về nghiên cứu phát triển giáo dục đại
học Việt Nam (tạp chí khoa học giáo dục số 3 tháng 12 năm 2005)...,Các tác giả
Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đặng Quốc Bảo, Vũ Ngọc Hải....đi sâu vào nghiên cứu một
cách có hệ thống những cơ sở lý luận chung của vấn đề quản lý giáo dục, quản lý
nhà trƣờng, quản lý phát triển đội ngũ giáo viên trong nhà trƣờng....Đây là những
công trình nghiên cứu rất cần thiết cho sự phát triển khoa học quản lý giáo dục và
thực tiễn nhà trƣờng.
Trong những thập niên cuối của thế kỷ XX trƣớc yêu cầu đổi mới giáo dục,
đòi hỏi nghiên cứu sâu hơn, có tính hệ thống hơn dựa trên những cơ sở khoa học và
thực tiễn quản lý giáo dục, một số cơ sở đầu ngành về giáo dục nhƣ Đại học Sƣ
phạm, Đại học Giáo dục, Học viện Quản lý Giáo dục… mở hệ đào tạo cử nhân, thạc
sỹ chuyên ngành Quản lý giáo dục. Từ đó có nhiều luận văn thạc sỹ, tiến sỹ về biện
pháp quản lý giáo dục ra đời. Các đề tài đề cập nhiều khía cạnh khác nhau của
quản lý giáo dục. Tuy nhiên những nghiên cứu về biện pháp quản lý ở một nhà
12
trƣờng nghệ thuật còn chƣa nhiều. Vì vậy tác giả chọn đề tài “Biện pháp quản lý
đào tạo tại trƣờng Cao đẳng Múa Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
1.2.1.1.Khái niệm
Quản lý ra đời từ xa xƣa khi bắt đầu có xã hội loài ngƣời, có lao động tập thể, có
phân công và hợp tác. Tuy nhiên mãi đến năm 1911 khi FW. Taylor cho ra đời cuốn
sách “những nguyên tắc quản lý khoa học” thì khoa học quản lý mới thực sự phát triển.
Ngày nay khái niệm quản lý đƣợc phổ biến ngày càng rộng rãi. Vai trò của
quản lý đƣợc đề cao. Quản lý trở thành nhân tố quyết định sự thành bại của mọi tổ
chức dù tổ chức đó thuộc loại nào và có quy mô ra sao. Mọi thành viên của mỗi tổ
chức cả ngƣời quản lý và ngƣời bị quản lý đều chỉ có thể đạt đƣợc mục tiêu của
mình thông qua sự vận dụng các yếu tố quản lý.
Quản lý là một lĩnh vực tổng hợp của nhiều ngành khoa học (kinh tế, xã hội,
chính trị, tâm lý...). Cùng sự phát triển của phƣơng thức sản xuất và sự nâng cao
trong nhận thức của con ngƣời thì sự khác biệt về nhận thức và lý giải khái niệm
quản lý trở nên rõ rệt. Do đó rất nhiều học giả trong và ngoài nƣớc đã đƣa ra giải
thích khác nhau về quản lý nhƣ:
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng (NXB Giáo Dục, 1998) thuật ngữ quản
lý đƣợc định nghĩa là: “Tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan”.
F. W Taylor cho rằng: “Quản lí là biết chính xác điều bạn muốn ngƣời khác
làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”.
H. Koontz thì lại khẳng định: “Quản lí là hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo
phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt các mục đích của tổ chức”.
C. Mác đã viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên quy mô tƣơng đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo
để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát
sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí
quan độc lập của nó. Một ngƣời độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn
một dàn nhạc thì chỉ cần phải có nhạc trƣởng”[2, tr 480].
13
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là sự tác động có mục đích tới
tập thể những ngƣời lao động nhằm đạt đƣợc những kết quả nhất định và mục đích
đã định trƣớc” [25, tr 23].
Hai tác giả Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Hoạt động
quản lý là tác động có định hƣớng, có chủ đích của chủ thể quản lý (ngƣời quản lý)
đến khách thể quản lý (ngƣời bị quản lý) trong một tổ chức - nhằm làm cho tổ chức
vận hành và đạt đƣợc mục đích của tổ chức” 7, tr 1
Dựa vào những quan niệm trên, khái niệm quản lý có thể đƣợc xác định nhƣ
sau: Quản lý là sự tác động có định hƣớng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý nhằm nâng cao năng suất công việc và đạt đƣợc mục đích của tổ
chức đề ra trong điều kiện biến động của môi trƣờng.
1.2.1.2. Các chức năng quản lý
Chức năng quản lý là một quá trình chủ thể quản lý tác động đến khách thể
quản lý trong quá trình quản lý nhằm thực hiện mục tiêu quản lý.
Chức năng quản lý bao gồm 4 chức năng cơ bản: Lập kế hoạch, Tổ chức,
Lãnh đạo và Kiểm tra.
- Chức năng lập kế hoạch
Lập kế hoạch là chức năng đầu tiên của một quá trình quản lý và đƣợc coi
là nền tảng khi bàn đến hoạt động quản lý. Lập kế hoạch là quá trình xác định
các mục tiêu, mục đích phát triển trong tƣơng lai của một tổ chức và đƣa ra những
biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó. Việc lập kế hoạch rất quan trọng để
đảm bảo cho nhà quản lý có thể đƣa ra những kế hoạch hợp lý và hƣớng toàn bộ
thành viên làm việc theo mục tiêu của kế hoạch đã định. Một kế hoạch sai lầm rất
có thể sẽ đƣa đến những hậu quả khó lƣờng.
Nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hoá: hình thành mục tiêu đối với
tổ chức; đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về các nguồn lực của tổ chức
để đạt đƣợc các mục tiêu này và; quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết
để đạt đƣợc các mục tiêu đó.
- Chức năng tổ chức
14
Tổ chức là quá trình xác định những công việc cần phải làm, sắp xếp các
công việc đƣợc giao và phân công cho các đơn vị, cá nhân đảm nhận các công
việc đó, tạo ra mối quan hệ ngang dọc trong tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện
thành công các kế hoạch và đạt đƣợc mục tiêu tổng thể của tổ chức. Thành công
của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của ngƣời quản lý trong việc
sử dụng các nguồn lực này sao cho có hiệu quả. Nhƣ vậy tổ chức đƣợc xem là
một công cụ quản lý.
- Chức năng lãnh đạo
Để tổ chức hoạt động có hiệu quả thì ngƣời quản lý cần thực hiện chức năng
lãnh đạo. Lãnh đạo là quá trình tập hợp mọi thành viên trong một tổ chức hƣớng
dẫn họ, chỉ đạo họ, động viên họ nhiệt tình, tự giác nỗ lực phấn đấu hoàn thành
những nhiệm vụ cụ thể để đạt đƣợc mục tiêu của tổ chức
- Chức năng kiểm tra
Là chức năng cuối cùng của quản lý. Chức năng kiểm tra đảm bảo rằng việc
lập kế hoạch, tổ chức phân công và lãnh đạo đƣợc thực hiện một cách nhanh chóng,
hiệu quả, phù hợp với mục tiêu đề ra. Kiểm tra nhằm phát hiện kịp thời các sai sót
và có sự điều chỉnh, uốn nắn nếu cần thiết. “Quản lý mà không có kiểm tra thì xem
nhƣ không có quản lý”. Vì thế ngƣời quản lý phải xem kiểm tra là một khâu cơ bản,
là nhiệm vụ thƣờng xuyên của tổ chức, kiểm tra là yếu tố kích thích, thúc đẩy việc
quản lý đạt hiệu quả.
Bốn chức năng trên có mối liên quan mật thiết với nhau, tƣơng tác lẫn
nhau tạo thành một chu trình hoàn chỉnh. Thông tin đóng vai trò quan trọng
cho ngƣời quản lý, nó vừa là điều kiện, vừa là công cụ để thực hiện tổng hợp các
chức năng quản lý.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tƣợng đặc trƣng của xã hội loài ngƣời. Giáo dục hƣớng
con ngƣời vào các hoạt động truyền tri thức và kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các
thế hệ đi trƣớc cho thế hệ sau làm cho xã hội và con ngƣời vận động, phát triển
không ngừng. Ngày nay giáo dục đã trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội của mỗi nƣớc. Tuy nhiên hoạt động giáo dục chỉ có thể thực hiện tốt
15
chức năng, nhiệm vụ của mình thì cần phải có công tác tổ chức và quản lý. Cũng
nhƣ khái niệm quản lý, khái niệm quản lý giáo dục đƣợc tiếp cận và nghiên cứu một
cách rất đa dạng
Quản lý giáo dục là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch, có hệ thống hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ
thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà trƣờng) nhằm thực hiện có chất
lƣợng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đã đặt
ra ngành giáo dục. [21, tr 36]
Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp
quy luật của chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục, là sự điều hành hệ thống giáo
dục quốc dân, các cơ sở giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài. QLGD là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lƣợng
xã hội nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục theo yêu cầu phát triển xã hội. [26, tr 6]
Còn theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc “ Quản lý giáo
dục là hoạt động có ý thức bằng cách vận dụng các quy luật khách quan của các cấp
quản lý giáo dục tác động đến toàn bộ hệ thống giáo dục nhằm làm cho hệ thống đạt
đƣợc mục tiêu của nó” 8.
Nói một cách tổng quát nhất “Quản lý giáo dục là những tác động có hệ
thống, có kế hoạch, có ý thức và hƣớng đích của chủ thể quản lý ở mọi cấp khác
nhau đến tất cả các mắt xích của toàn bộ hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự hình
thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở quy luật của quá trình giáo dục về sự phát
triển thể lực, trí lực và tâm lực trẻ em 13, tr 341 .
Đối tƣợng của quản lý giáo dục bao gồm: hệ thống giáo dục quốc dân, hệ
thống quản lý giáo dục, các quan hệ quản lý, các chủ thể quản lý cấp dƣới, tập thể
và cá nhân giáo viên và học sinh, các nguồn lực giáo dục. 22, tr 20.
Quản lý giáo dục là loại hình quản lý nhà nƣớc. Các hoạt động quản lý ở đây
đƣợc tiến hành dựa trên quyền lực nhà nƣớc thông qua một hệ thống các quy phạm
pháp luật.
1.2.3. Quản lý nhà trường
16
Quản lý nhà trƣờng là quản lý giáo dục ở cấp vi mô các mặt hoạt động giáo
dục và đào tạo trong phạm vi một nhà trƣờng. Có nhiều cách định nghĩa về quản lý
nhà trƣờng:
“Quản lý hoạt động giáo dục trong nhà trƣờng bao gồm hệ thống những tác
động có hƣớng đích của hiệu trƣởng đến các hoạt động giáo dục, đến con ngƣời
(giáo viên, cán bộ nhân viên và học sinh) đến các nguồn lực (cơ sở vật chất, tài
chính, thông tin…), đến các ảnh hƣởng ngoài nhà trƣờng một cách hợp quy luật
giáo dục, quy luật tâm lí, quy luật kinh tế, quy luật xã hội…) nhằm đạt mục tiêu
giáo dục” 22, tr 11.
Trƣờng học là một tổ chức giáo dục chuyên nghiệp, là một bộ phận cấu
thành của hệ thống giáo dục quốc dân. Hoạt động của nhà trƣờng vừa mang tính xã
hội vừa mang tính sƣ phạm. Nhà trƣờng trực tiếp tổ chức quá trình giáo dục và đào
tạo thế hệ trẻ, thực hiện mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo:
“Quản lý nhà trƣờng là hệ thống xã hội sƣ phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi
hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và hƣớng đích của chủ thể quản lý lên tất
cả các mặt của đời sống nhà trƣờng để đảm bảo sự vận hành tối ƣu xã hội – kinh tế và
tổ chức sƣ phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang lớn lên” 22, tr 12.
Nhƣ vậy quản lý nhà trƣờng thực chất là quản lý đào tạo trên tất cả các mặt,
các khía cạnh liên quan đến quá trình đào tạo trong phạm vi nhà trƣờng.
Hiệu trƣởng là ngƣời đứng đầu nhà trƣờng, do cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền bổ nhiệm, công nhận. Hiệu trƣởng cùng các thành viên khác trong nhà trƣờng
chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trƣờng.
1.2.4. Quản lý đào tạo
1.2.4.1. Đào tạo
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “Đào tạo là một quá trình tác động đến
một con ngƣời nhằm làm cho ngƣời đó lĩnh hội và nắm vững những kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho ngƣời đó thích nghi với cuộc
sống và khả năng nhận một sự phân công nhất định, góp phần của mình vào sự phát
triển của xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài ngƣời. Về cơ bản, đào
tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trƣờng gắn với giáo dục nhân cách”32, tr 289].
17
Tác giả Nguyễn Minh Đƣờng trong đề tài KX07 – 14 đã xác định: “Đào
tạo là một quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát
triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ… để hoàn thiện nhân cách
cho mỗi cá nhân, tạo tiền đề cho họ có thể vào hành nghề một cách năng suất và
hiệu quả” [14, tr 45].
Theo tác giả Mạc Văn Trang thì: “Đào tạo là hình thành kiến thức, thái độ, kỹ
năng nghề nghiệp bằng một quá trình giảng dạy, huấn luyện có hệ thống theo chƣơng
trình quy định với những chuẩn mực nhất định (chuẩn quốc gia hay quốc tế). [26]
Nhƣ vậy có thể hiểu: Đào tạo là quá trình truyền tải có mục đích, có hệ
thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ nghề nghiệp…đồng thời hình thành
và phát triển nhân cách cho mỗi cá nhân giúp họ trở thành người lao động có kĩ
thuật, phát huy tính sáng tạo hiệu quả trong nghề nghiệp.
1.2.4.2. Quản lý đào tạo
Từ những định nghĩa đã nêu về khái niệm “quản lý”, khái niệm về “đào tạo”
có thể định nghĩa về quản lý đào tạo nhƣ sau:
Quản lý đào tạo là sự tác động có mục đích, có hệ thống của chủ thể quản lý
nhằm thực hiện được mục tiêu của nền giáo dục trong việc đào tạo con người có tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo cùng với quá trình hình thành và phát triển nhân cách với
nhiệm vụ trung tâm là quá trình dạy học.
Đối tƣợng của quản lý đào tạo trong nhà trƣờng cao đẳng là sự hoạt động của
giảng viên, sinh viên, các đơn vị tổ chức thuộc trƣờng trong việc thực hiện mọi kế
hoạch, nội dung chƣơng trình đào tạo nhằm thực hiện đƣợc các mục tiêu đã đề ra.
Quản lý đào tạo ở đây bao gồm quản lý quá trình đào tạo từ đầu vào đến “sản
phẩm” ra trƣờng trong mối quan hệ tƣơng tác, liên thông không những với các đơn
vị trong trƣờng mà với cả các tổ chức khoa học, kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật, doanh
nghiệp... có liên quan ở ngoài trƣờng. Các tổ chức ở ngoài trƣờng giữ một vị trí
quan trọng trong việc giúp trƣờng quản lý nâng cao chất lƣợng đào tạo, đặc biệt
trong bối cảnh nền kinh tế thị trƣờng hiện nay.
1.2.5. Đổi mới quản lý đào tạo
18
Theo đại từ điển tiếng Việt (NXB Đại học quốc gia TPHCM 2008). Đổi
mới: “thay đổi hoặc làm cho thay đổi tốt hơn, tiến bộ hơn so với trƣớc”.
Từ điển tiếng Việt thông dụng (NXB giáo dục 1998), Đổi mới: “Biến đổi và
tiến bộ nhiều hơn”
Đổi mới quản lý đào tạo là quá trình biến đổi có mục đích, có hệ thống của
chủ thể quản lý nhằm thực hiện được mục tiêu của nền giáo dục trong việc đào tạo
con người có tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cùng với quá trình hình thành và phát triển
nhân cách với nhiệm vụ trung tâm là quá trình dạy học, đưa hệ vận động từ trạng
thái hiện tại đến mục tiêu đã định.
1.3. Đặc thù của công tác quản lý đào tạo trong trƣờng cao đẳng nghệ thuật
Nội dung quản lý đào tạo trong trƣờng cao đẳng chuyên nghiệp nói chung và
cao đẳng nghệ thuật nói riêng đƣợc thể hiện ở quản lý đầu vào, quản lý quá trình và
quản lý đầu ra.
Quản lý đầu vào: Nội dung quản lý đầu vào là quản lý công tác tuyển sinh;
quản lý sinh viên, cán bộ quản lý, nhân viên. Quản lý mục tiêu, nội dung, chƣơng
trình đào tạo, quản lý thiết bị, vật tƣ; quản lý cơ sở vật chất dạy và học.
Quản lý quá trình là quản lý quá trình dạy học lý thuyết, thực hành.
Quản lý đầu ra: Đảm bảo sinh viên ra trƣờng có kiến thức, kỹ năng, thái độ, và
kinh nghiệm có thể đáp ứng và thích nghi với thị trƣờng lao động và nhu cầu xã hội.
Nhƣ vậy thực chất quản lý đào tạo có thể bao gồm quản lý các nội dung chính sau:
- Quản lý mục tiêu, nội dung chƣơng trình đào tạo
- Quản lý hoạt động dạy của giảng viên
- Quản lý hoạt động học của sinh viên
- Quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị và các phƣơng tiện khác để dạy và học
- Kiểm tra, đánh giá và đúc rút kinh nghiệm
Từ những nội dung trên các cơ sở đào tạo phải có kế hoạch rà soát và xác
định lại mục tiêu đào tạo của chƣơng trình giáo dục theo chuẩn đầu ra, làm căn cứ
đổi mới nội dung, chƣơng trình, phƣơng pháp dạy học, thi kiểm tra đánh giá và
chuẩn bị các điều kiện đảm bảo chất lƣợng khác. Khắc phục vấn đề tồn tại trong
19
giáo dục đào tạo vốn chỉ coi trọng những gì mình có, nhà trƣờng cung cấp dịch vụ
giáo dục đến đâu thì làm đến đó...không chú trọng kết quả đầu ra.
1.3.1. Quản lý công tác tuyển sinh
1.3.1.1. Đặc thù công tác tuyển sinh
Công tác tuyển sinh là một khâu quan trọng trong quá trình đào tạo. Công tác
tuyển sinh vào các trƣờng đại học, cao đẳng diễn ra mỗi năm một lần nhằm tuyển
chọn học sinh cho các trƣờng ĐH, CĐ. Tuyển sinh liên quan đến nhiều đối tƣợng,
các đơn vị. Yêu cầu của tuyển sinh là đƣợc tổ chức chặt chẽ, chính xác, đòi hỏi sự
phối hợp đồng bộ giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, các sở giáo dục, hội đồng tuyển
sinh các trƣờng ĐH, CĐ cùng các ban, ngành liên quan.
Tuyển sinh liên quan đến chất lƣợng đầu vào. Do đó công tác tuyển sinh phải
thực hiện đúng quy chế của BGD& ĐT, đảm bảo an toàn, công bằng đánh giá đúng
trình độ ngƣời học, phản ánh đúng chất lƣợng dạy và học của các cấp học.
Thi tuyển sinh đƣợc hiểu là kỳ thi nhằm tuyển chọn, đánh giá trình độ kiến
thức và kỹ năng của từng thí sinh so với yêu cầu cần phải đạt đƣợc của mỗi cấp,
mỗi trƣờng, mỗi khoá, để lựa chọn đủ chỉ tiêu học sinh vào khoá học mỗi năm tính
từ thí sinh có điểm cao nhất đến hết chỉ tiêu.
Đối với các trƣờng nghệ thuật để có đƣợc nhiều tài năng trong lĩnh vực nghệ
thuật thì công tác tuyển chọn năng khiếu là khâu quan trọng mang tính quyết định
đến chất lƣợng đào tạo và việc thực hiện mục tiêu đào tạo của nhà trƣờng. Làm tốt
đƣợc khâu này nhà trƣờng sẽ tuyển chọn đƣợc nhiều nhân tài đóng góp cho sự lớn
mạnh của ngành nghệ thuật nƣớc nhà. Nếu không sẽ gây lãng phí về thời gian, sức
lực và tiền bạc của nhà nƣớc, nhân dân. Thí sinh phải có đủ điều kiện theo quy chế
tuyển sinh do BGD & ĐT và Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch thống nhất ban hành
nhƣ độ tuổi, trình độ văn hoá, sức khoẻ. Đặc biệt đối với các chuyên ngành nghệ
thuật đòi hỏi thí sinh phải có thêm năng khiếu nghệ thuật và các điều kiện khác
thích ứng với từng lĩnh vực.
20
Đối với các trƣờng tuyển sinh ngành nghệ thuật, môn thi là Văn và năng
khiếu. Môn văn thi theo đề thi chung của BGD & ĐT; các môn năng khiếu thi theo
đề thi riêng của trƣờng.
Môn thi của các trƣờng nghệ thuật:
- Khối N thi các môn : Văn, Kiến thức âm nhạc, Năng khiếu âm nhạc;
- Khối H thi các môn : Văn, Hội hoạ, Bố cục;
- Khối M thi các môn: Văn, Toán, Đọc, kể diễn cảm và hát;
- Khối S thi các môn : Văn, 2 môn Năng khiếu điện ảnh;
Ngoài ra các khâu trong tổ chức tuyển sinh ở khối nghệ thuật có khá nhiều
điểm khác biệt. Đối với công tác tuyển sinh ở các trƣờng ĐH, CĐ khác, các khâu ra
đề thi, coi thi và chấm thi là 3 công đoạn độc lập thì ở các trƣờng tuyển sinh ngành
năng khiếu khâu coi thi và chấm thi gắn liền với nhau. Ở khâu chấm thi, với các
môn tự luận phải tiến hành rọc phách… còn với các môn năng khiếu thì Hội đồng
chấm thi phải chấm điểm trực tiếp.
Công tác tổ chức tuyển sinh đƣợc tiến hành theo một quy trình chặt chẽ ,
khoa học bao gồm các công việc nhƣ sau:
- Tổ chức tuyên truyền hƣớng nghiệp cho ngƣời có nguyện vọng thi vào
trƣờng (mở các lớp bồi dƣỡng, đào tạo những kiến thức cơ bản về nghệ thuật, tạo
nguồn cho tuyển sinh).
- Tuyển sinh theo diện rộng (tuyển sinh trực tiếp tại trƣờng hoặc cử các Giáo
viên trực tiếp đi tuyển sinh tại các địa phƣơng).
- Qua nhiều bƣớc sàng lọc (quy trình tuyển chọn từ sơ đến chung tuyển.....)
- Xác định các tiêu chí năng khiếu, phƣơng pháp đánh giá nhằm phục vụ việc
tuyển chọn học sinh đối với từng ngành nghệ thuật đồng thời góp phần nâng cao
kiến thức, năng lực của cán bộ tuyển sinh và chất lƣợng đào tạo nghệ thuật ở các cơ
sở đào tạo chuyên nghiệp.
- Lựa chọn những công cụ thích hợp để đo đạc từng tiêu chí cụ thể.
Có thể nói chất lƣợng công tác tuyển chọn học sinh có năng khiếu phụ thuộc
nhiều vào các tiêu chí nhận dạng năng khiếu cụ thể.
21