Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 113 trang )
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.Tổng quan các nghiên cứu về tƣ duy trẻ em
1.1.1. Những nghiên cứu vềtư duy trẻ em ở nước ngoài
Đối với tâm lí học phát triển nói chung và lĩnh vực nghiên cứu tư duy trẻ em
nói riêng, hai nhà tâm lí học có ảnh hưởng lớn nhất là J.Piaget và L.X.Vưgotxki.
“Dù Piaget và Vưgotxki là người cùng thời với nhau, quan điểm của hai ông lại đi
theo hai hướng riêng biệt. Trong khi Piaget mô tả trẻ em như những nhàkhoa học tí
hon chỉ một mình cố gắng tìm hiểu thế giới rộng lớn, Vưgotxki lại khắc họa chân
dung chúng đang sống giữa những người khác mà những người này nhiệt tình giúp
đỡ để trẻ học được những năng lực cần thiết nhằm thích nghi với nền văn hóa.
Trong khi Piaget quan tâm đến nhiều khía cạnh của sự phát triển ở tất cả trẻ em
thuộc mọi xã hội trong mọi giai đoạn lịch sử, Vưgotxki lại nhấn mạnh những nhân
tố khác biệt giữa những trẻ em lớn lên ở những thời đại khác nhau trong các bối
cảnh xã hội khác nhau” [22; tr17]. Hai cách tiếp cận này có thể bổ sung cho nhau,
giúp tạo ra một cái nhìn tổng thể về lí luận và phương pháp nghiên cứu tư duy trẻ
em. Sau đây là nội chung chính của từng cách tiếp cận.
1.1.1.1. Jean Piaget (1896 – 1980) và học thuyết phát sinh nhận thức
Tên tuổi của nhà tâm lý học Thụy Sĩđược biết đến trên toàn thế giới vì những
cống hiến to lớn của ông cho nền tâm lý học và giáo dục học thế kỉ XX. Suốt cuộc
đời nghiên cứu khoa học miệt mài, J. Piaget đã để lại một di sản khổng lồcác công
trình nghiên cứu được ghi chép bằng số liệu tỉ mỉ và một kho tàng các tác phẩm nổi
tiếng như “Ngôn ngữ và tư duy của trẻ” (1923), “Tâm lí học trí khôn” (1946), “Tâm
lí học trẻ em” (1966)…
Xuất phát từ cơ sở sinh học và logic học để xây dựng các khái niệm công cụ,
đồng thời sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu lâm sàng, trắc nghiệm và
thực nghiệm, J.Piaget đã xây dựng nên học thuyết phát sinh nhận thức về sự phát
triển tâm lí trẻ em cũng như tâm lí con người nói chung – một trong những hệ thống
lý thuyết có ảnh hưởng nhất trong tâm lí học thế kỉ XX.
5
Để hiểu được học thuyết của Piaget, chúng ta nên bắt đầu từ những luận điểm
xuất phát và khái niệm công cụ của ông: Đồng hóa, Điều ứng, Sơ đồ và Cân bằng.
Trước khi là nhà tâm lí học, J. Piaget đã là nhà sinh vật học và được trang bị
kiến thức triết học, lôgic học và toán học. Mọi giải thích của J. Piaget về sự phát
sinh trí tuệ và tư duy trẻ em chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của hai lĩnh vực khoa học
này. Vì thế, J. Piaget đã sử dụng 4 khái niệm gốc sinh học và logic học: Đồng hoá
(Assimilation), Điều ứng (Accommodation), Sơ cấu hay Sơ đồ (Scheme) và Cân
bằng (Equilibrum) để phân tích sự phát sinh và phát triển của trí tuệ trẻ em.
Theo Piaget, sự xuất hiện và phát triển của trí tuệ và tư duy trẻ em kế tục sự
thích nghi của các sinh vật với môi trường, theo các cơ chế đồng hóa và điều ứng.
Đồng hóa là não tiếp nhận các kích thích từ môi trường bên ngoài, xử lý các
tác động đó và biến thành cái có nghĩa cho bản thân trong quá trình thích ứng với
môi trường. Thực chất, đồng hóa chính là quá trình tái lập lại một số đặc điểm của
khách thể đã được nhận thức, đưa nó vào trong các cấu trúc tâm lý đã có. Như vậy,
đồng hóa là chủ thể tiếp nhận khách thể, hay có thể nói là chủ thể đồng hóa khách
thể vào cấu trúc hành động. Và về lý thuyết, đồng hóa không làm thay đổi nhận
thức, nó chỉ mở rộng cái đã biết, tức là làm nhận thức tăng trưởng.
Điều ứng là quá trình chủ thể tái lập, cải tổ những thông tin đã tiếp nhận để
hình thành cấu trúc tâm lý mới nhằm đáp ứng các điều kiện của môi trường sống.
Như vậy, điều ứng là chủ thể đem cấu trúc hành động đã được tạo ra trước đó áp
theo khách thể, hay có thể nói là chủ thể điều ứng cấu trúc hành động với khách thể.
Và về lý thuyết, điều ứng làm thay đổi nhận thức, tức là làm nhận thức phát triển.
Cân bằng là trạng thái ổn định giữa đồng hóa và điều ứng để con người đáp
ứng những yêu cầu của xã hội nhằm thích nghi, tồn tại và phát triển. Cân bằng ở
đây không phải là cân bằng tĩnh, thiết lập một lần là xong. Nó là cân bằng động,
thường xuyên bị phá vỡ và tái thiết lập ở mức cao hơn, phức tạp và tinh tế hơn. Một
khi các cấu trúc tâm lý đã có của cơ thể không thể đáp ứng được những yêu cầu mới
của môi trường, cơ thể buộc phải tiến hành đồng hóa và điều ứng mới, làm sự cân
bằng cũ bị phá vỡ, thiết lập cân bằng mới, dẫn đến sự thích nghi mới cao hơn.
6
Sơ đồ, theo nghĩa hẹp, là những gì chung nhất được giữ lại trong hành động từ
nhiều lần lặp đi lặp lại hành động đó trong những tình huống khác nhau. Theo nghĩa
rộng, sơ đồ hành động là một cấu trúc ở mức độ phát triển trí tuệ nhất định, tức là
một tổ chức được sắp xếp theo một trình tự nhất định với các quan hệ nhất định. Ở
tầng nghĩa rộng này, sơ đồ hành động là một chỉnh thể có nguyên tắc hoạt động
khác với nguyên tắc hoạt động của các bộ phận cấu thành, đó là nguyên tắc tự điều
chỉnh. Cơ chế tự điều chỉnh của hệ thống này vận hành nhờ xu hướng hướng tới sự
cân bằng giữa các bộ phận cấu thành. Như vậy, có thể hiểu sơ đồ hành động là
những kinh nghiệm mà chủ thể tích lũy được trong mỗi giai đoạn nhất định. Nó là
một lớp các thao tác giống nhau theo một trật tự nhất định, là một thể thống nhất
bền vững các yếu tố cấu thành có quan hệ với nhau. Theo đó, hành động tự phát của
trẻ sơ sinh, cũng như về sau có được các thao tác ở những trình độ khác nhau đều
được coi là sơ đồ. Các hành động cảm giác – vận động hay một khái niệm mà trẻ
dùng để xử lý mối quan hệ với các sự vật chung quanh cũng gọi là các sơ đồ.
Học thuyết của Piaget có hai nội dung lớn gắn bó chặt chẽ với nhau: học
thuyết về chức năng, cấu trúc và sự phát sinh, phát triển của trí tuệ (Tâm lí học phát
sinh) và học thuyết về các giai đoạn phát triển trí tuệ ở trẻ em (Tâm lí học trẻ em).
- Nội dung thứ nhất: Tâm lí học phát sinh
Nội dung này đề cập đến chức năng, cấu trúc và quá trình phát sinh, phát triển
trí tuệ và tư duy trẻ em.
Piaget cho rằng trí tuệ trẻ em có bản chất thao tác (Operation) và được trẻ em
xây dựng lên bằng chính hành động (Action) của mình. Sự phát triển trí tuệ được
hiểu là sự phát triển hệ thống thao tác.
Theo J. Piaget, thao tác là hành động được chuyển vào bên trong và được rút
gọn. Thao tác được nảy sinh từ các hành động có đối tượng bên ngoài. Tuy nhiên,
khác với hành động, thao tác là hành động có tính rút gọn và đối tượng của nó
không phải là những sự vật có thực, mà là những hình ảnh, biểu tượng, kí hiệu.
Thao tác có tính chất thuận nghịch, bảo tồn và tính liên kết. Các thao tác được
cấu trúc thành hệ thống nhất định. Piaget phân loại các thao tác theo hình thức tồn
7
tại của đối tượng tác động. Theo đó, có hai loại thao tác là thao tác cụ thể (thao tác
được tiến hành trên các vật liệu cụ thể, vật chất như đất nặn, que tính v.v…) và thao
tác hình thức (thao tác được tiến hành trên vật liệu là các mệnh đề).
Thao tác trí tuệ không có sẵn trong đầu đứa trẻ, cũng không nằm trong đối
tượng khách quan, mà nằm ngay trong mối tác động qua lại giữa chủ thể với đối
tượng, thông qua hành động. Có nghĩa là đứa trẻ tự xây dựng cấu trúc trí tuệ cho
mình. Thời kì đầu, trẻ em tiến hành thao tác với vật liệu là các dạng vật chất cụ thể,
các hành động thực tiễn - mức thao tác cụ thể. Sau đó, các vật liệu cụ thể được thay
bằng kí hiệu, khái niệm, mệnh đề...trí tuệ được phát triển tới mức thao tác hình thức
- mức trưởng thành.
Vậy quá trình hình thành các thao tác diễn ra như thế nào?
J.Piaget diễn tả quá trình chuyển từ hành động bên ngoài thành thao tác bên
trong qua hai bước: “thu nhận ý thức qua hoạt động” và “trừu tượng phản chiếu của
hoạt động”.
+ Thu nhận ý thức qua hoạt động: Sơ đồ chung của mức độ thu nhận ý thức
qua hoạt động là sự chuyển từ “vùng ngoại biên P” (périphèrie), là vùng khởi điểm
của động tác, đến “vùng chính tâm C” (région centrale). Khởi đầu của quá trình này
là một phản ứng tức thời (một sơ đồ hay một động tác) diễn ra trên bề mặt của
khách thể, còn ở bên ngoài chủ thể và vật thể. Từ đó xuất hiện hai hướng triển khai
của ý thức chủ thể. Một mặt, hướng dần vào “vùng chính tâm C” của vật thể, kết
quả là chủ thể hiểu được bản chất của vật thể; mặt khác, hướng dần vào “vùng chính
tâm C” của động tác, nhờ đó chủ thể ý thức được cơ chế bên trong của động tác. Hai
chiều P đi vào C (P → C khách thể) và vào C’ (P → C’ động tác) có quan hệ tương
hỗ với nhau. Một bên để tìm hiểu sự vật, còn bên kia để khái niệm hoá động tác.
Động tác tạo ra một kết quả, nhận thức sự vật cho biết mức độ đúng hay sai của nó,
từ đó, chủ thể điều chỉnh động tác của mình. Kết quả là trong ý thức chủ thể dần thu
nhận được bản tính của vật thể - “vật tính” và sơ đồ của động tác – “hoạt tính”. Vật
tính và hoạt tính là hai phương diện của một quá trình đồng hoá (nhận thức) thực
8
tại. Nó là cơ sở để diễn ra quá trình tiếp theo: quá trình suy lí (trừu tượng) để tìm ra
mối quan hệ giữa các yếu tố của sự vật, của động tác và giữa sự vật với động tác.
+ Quá trình trừu tượng phản chiếu của hoạt động được thực hiện qua ba mức:
trừu tượng thực nghiệm; trừu tượng giả thực nghiệm và trừu tượng phản chiếu.
Trừu tượng thực nghiệmlà quá trình trừu tượng dựa trên các động tác thực để
gây ra các hiện tính (vật tính và hoạt tính). So sánh các hiện tính đó, liên kết chúng
để tạo ra các suy lí. Sự trừu tượng này được thực hiện không phải do sự vật hay
động tác tự bộc lộ ra mà là do quá trình chủ thể đồng hoá chúng. Tuy nhiên, sự trừu
tượng này mới chỉ diễn ra ở bề ngoài, chưa đi vào nội dung sự vật hay động tác.
Trừu tượng giả thực nghiệm là trừu tượng không còn phải dựa trực tiếp vào
những động tác trên vật thực của chủ thể, mà dựa vào các giả động tác đó. Những
động tác này, một mặt vẫn phải dựa vào các vật cụ thể, nên nó vẫn mang tính chất
thực nghiệm; mặt khác, những tính chất của thao tác, không phải có sẵn trong sự
vật, mà do hoạt động của chủ thể tạo ra, vì vậy nó có tính chất của sự trừu tượng
phản chiếu, J.Piaget cho rằng loại trừu tượng này diễn ra mạnh nhất trong giai đoạn
sơ đồ thao tác cụ thể.
Trừu tượng phản chiếu có nghĩa là thu nhận được tình trạng, ý nghĩa của sự
phối hợp trong thao tác (hình thức và nội dung). Khái niệm phản chiếu có hai nội
dung bổ sung cho nhau: chuyển hoá để chiếu lên ở mức cao hơn những phần tử
(những thu nhận) rút ra được từ các mức trừu tượng trước; liên kết các phần tử đã
được đưa lên, hoà nhập chúng với các phần tử ở cấp ấy đã có từ trước. Do sự
chuyển hoá và liên kết này dẫn đến cải tổ lại, tổ chức lại, suy xét lại toàn bộ sơ đồ
các phần tử ở mức cao. Sự cải tổ này đã tạo ra “trừu tượng suy lí”, động tác đã trở
thành thao tác.[11; tr396, 397, 398].
- Nội dung thứ hai: Tâm lí học trẻ em
Nội dung này đề cập đến quan điểm của Piaget về giai đoạn phát triển tâm lí
trẻ em, nội dung sự phát triển qua các giai đoạn và các yếu tố chi phối sự phát triển.
Phân chia các giai đoạn phát triển trí tuệ của trẻ em và một vấn đề tâm huyết của
9
Piaget, “trải qua nhiều thời kì, nhiều biến đổi và luôn luôn trở đi, trở lại trong mỗi
một công trình, mỗi tác phẩm của ông trong suốt hơn 60 năm nghiên cứu” [5; tr66].
Theo Piaget, trí tuệ của cá nhân phát triển từ thấp đến cao được tuân theo trật
tự chặt chẽ, hằng định. Đây không phải là trật tự thời gian mà là trật tự kế tiếp, mọi
cá nhân phát triển bình thường đều phải tuân theo trật tự đó. Đồng thời quá trình
phát triển này theo hai quy luật: tăng trưởng liên tục, từng tí, từng tí một (theo cơ
chế đồng hoá) và phát triển nhảy vọt, chuyển đoạn theo nguyên lí thống hợp. Chính
sự nhảy vọt cho ta khái niệm giai đoạn. Piaget cho rằng, mọi lứa tuổi có đặc trưng
riêng về chất lượng trí tuệ và được coi là một giai đoạn phát triển.
Một giai đoạn trí tuệ có những đặc trưng sau:
- Thứ nhất, các thành tựu trí tuệ giai đoạn này là sự kế tiếp giai đoạn trước
- Thứ hai, các thành tựu của gia đoạn này cũng là sự thống hợp các cấu trúc đã
có từ giai đoạn trước
- Thứ ba, mỗi giai đoạn là một cấu trúc tổng thể các sơ đồ chứ không phải là
sự xếp chồng các sơ đồ lên nhau
- Thứ tư, mỗi giai đoạn đều gồm các cấu trúc đã có, đang có và các yếu tố
chuẩn bị cho giai đoạn tiếp sau.
Dựa vào các tiêu chuẩn trên, sắp xếp các dữ kiện, Piaget chia quá trình phát
triển trí tuệ của trẻ em thành các giai đoạn lớn:
- Giai đoạn cảm giác - vận động, gọi tắt là giai đoạn giác - động(từ 0 đến 1.5
tuổi hay 2 tuổi). J. Piaget đã chia sự hình thành và phát triển tư duy trong giai đoạn
giác – động làm 6 thời kì nhỏ:
+ Thời kì 1 (0 - 1 tháng): Các phản xạ có tính chất bẩm sinh - phản xạ bú,
được phát động do sự kích thích của môi trường và chúng càng được lặp lại càng có
hiệu lực hơn. Từ đó hình thành sơ cấu cảm giác và cử động. Sự lặp lại các phản xạ
bú tạo ra phản ứng vòng tròn sơ cấp.
+ Thời kì 2 (1 - 4 tháng): hình thành tri giác và thói quen vận động, qua điều
kiện hoá các phản xạ đã có theo các tương tác của môi trường (động tác mút khi
nhìn thấy bầu sữa v.v…).
10
+ Thời kì 3 (4 - 8 tháng): phản ứng vòng tròn thứ cấp được thiết lập do sự lặp
lại các cư xử (các phản ứng) phối hợp giữa hệ thống tự giác với các sơ cấu vận động
(lặp lại các hành vi kéo sợi dây làm lắc quả chuông để phát ra tiếng kêu.v.v…).
+ Thời kì 4 (8 - 12 tháng): hình thành khả năng phối hợp phương tiện - mục
đích (nhấc tay người lớn để lấy đồ chơi v.v…) Xuất hiện dấu hiệu của trí khôn, trên
cơ sở sơ đồ mục đích - phương tiện.
+ Thời kì 5 (12 - 18 tháng): phát hiện ra các phương tiện mới, khả năng mục
đích - phương tiện (kéo chiếu để cho búp bê lại gần. Kéo sợi dây để lấy vật v.v…).
+ Thời kì 6 (18 - 24 tháng): phát sinh các “giải pháp sáng tạo” (hiện tượng
bừng hiểu) trong ứng xử (tìm cách mở nắp hộp hoặc bao diêm lấy kẹo hay vật hấp
dẫn nào đó v.v…). Điều này chứng tỏ trẻ đã có sự nhập tâm các sơ đồ hành động và
có sự phôi hợp các sơ đồ đó ở trong đầu. Nhiều nhà tâm lý học cho rằng, trẻ 2 tuổi
đạt mức trí tuệ hành động, giống như trí tuệ của khỉ hình người trong các thực
nghiệm của W. Koehler.
- Giai đoạn tiền thao tác(từ 1.5 tuổi hay 2 tuổi đến 7 tuổi)
- Giai đoạn thao tác cụ thể (từ 7 - 8 tuổi đến 11 - 12 tuổi)
- Giai đoạn thao tác hình thức (từ sau 11- 12 tuổi)
J. Piaget cũng đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển trí tuệ trẻ
em gồm:
- Sự trưởng thành và chín muồi các chức năng sinh lí thần kinh của trẻ em
- Sự luyện tập và kinh nghiệm thu được thông qua hành động với đối tượng
- Tương tác và chuyển giao của các yếu tố xã hội
- Tính chủ thể và sự phối hợp chung của các hành động cá nhân.
Trên đây là phần tóm những quan điểm của J. Piaget về sự phát triển trí tuệ và
tư duy trẻ em. Đóng góp đáng kể của học thuyết phát sinh nhận thức có thể kể đến
là: cách tiếp cận phát sinh, phát triển khi giải quyết các vấn đề cơ bản của tâm lí
học; các phương pháp nghiên cứu khách quan, đặc biệt là phương pháp lâm sàng;
quan điểm nhấn mạnh hoạt động trí tuệ không đơn thuần là hoạt động nhận thức, là
sự tái lập lại đặc điểm của các vật thể bên ngoài, mà chủ yếu là sự thay đổi chính
11
chủ thể nhận thức. Sự thay đổi đó quy định khả năng nhận thức đối tượng mới; tách
ra các giai đoạn phát triển cụ thể v.v... [10; tr30].
Tuy nhiên, ở đây cũng cần chỉ ra một số hạn chế của nó:
- Khi cố gắng tách ra và nhấn mạnh những đặc điểm cơ bản của trí tuệ, Piaget
đã sử dụng quá nhiều khái niệm của sinh học, toán học và lôgic. Vì vậy, bản chất
của trí tuệ mới chỉ được trình bày như là một hệ thống lôgic - sinh học, lôgic - tâm lí
và cấu trúc toán, còn toàn bộ nội dung xã hội của nó bị bỏ qua.
- Trong học thuyết phát sinh tâm lí, yếu tố tự hành động của chủ thể được đề
cao, còn vai trò định hướng của người lớn chưa được đánh giá đúng mức. Vả lại,
yếu tố hành động của chủ thể mới được nghiên cứu chủ yếu về phương diện kết
quả, còn quá trình chuyển nó thành thao tác bên trong thành thao tác trí tuệ chưa
được nghiên cứu. Nói chung, Piaget quan niệm sự phát triển trí tuệ của trẻ em là sự
phát triển nội sinh theo cơ chế thích nghi, thích ứng cá thể. Vì thế, phải đến một thời
kì trưởng thành nhất định, có tiềm lực nào đó, trẻ mới có khả năng thích ứng được.
Quá trình phát triển trí tuệ của trẻ là quá trình tự nó hình thành cho nó và xã hội hoá
cái mà nó đã có và được bộc lộ ra ngoài (xã hội can thiệp vào cái biểu hiện ra ngoài
đó và nhuộm màu nó). Nguyên tắc của Piaget là đứa trẻ tự phát triển trí tuệ của
mình và xã hội thâm nhập vào để làm cho nó phù hợp với xã hội. Vì vậy, nếu không
nhận thức đúng vai trò của yếu tố nội sinh sẽ dễ dẫn đến tuyệt đối hoá yếu tố trưởng
thành sinh học của cá nhân, mà không thấy được vai trò chủ đạo của yếu tố xã hội.
Trong khi đó, công trình nghiên cứu của các nhà tâm lí học hoạt động đã chứng
minh được trong điều kiện dạy học phát triển, có thể hình thành các thao tác trí tuệ
cho trẻ em sớm hơn so với tuổi theo nghiên cứu của Piaget...Vì vậy, quan điểm của
L.X.Vưgotxki - chủ động tổ chức quá trình phát triển từ ngoài vào đứa trẻ và xác
lập cơ chế hình thành tư duy – được xem là một trong hướng khắc phục có hiệu quả
những hạn chế nêu trên của hướng tiếp cận phát sinh trí tuệ.
“Trong lúc Piaget chỉ chuyên chú vào việc phát hiện các qui luật sinh thành trí
tuệ của trẻ em, chỉ quan tâm chủ yếu đến việc mô tả nó sinh ra và phát triển như thế
nào, còn ít quan tâm làm thế nào để chủ động phát triển nó thì các nhà tâm lý học
12
Xô Viết (trước đây) mà tiêu biểu là A.N. Leontiev, P.Ia. Galperin, Đ.B. Enconhin,
V.V. Davydov… đã dày công tìm kiếm các cấu trúc của sự phát triển nằm bên
ngoài đứa trẻ và xác lập cơ chế hình thành chúng, khả dĩ có thể kiểm soát và điều
khiển được. Chủ động tổ chức quá trình phát triển từ ngoài vào đứa trẻ là tư tưởng
chủ đạo của các nhà tâm lý học Xô Viết trước đây. Đó là sự giải quyết triệt để
những vấn đề mà J. Piaget và các nhà tâm lý học cùng xu hướng chưa nghiên
cứu.”[5; 65]. Cách tiếp cận này của các nhà tâm lí học xô viết xuất phát từ nền tảng
quan niệm của L.X.Vưgotxki về sự phát triển tâm lí trẻ em nói chung và sự hình
thành phát triển tư duy trẻ nói riêng. Sau đây là khái quát về quan điểm của
L.X.Vưgotxki về sự phát sinh phát triển trí tuệ, tư duy trẻ em.
1.1.1.2. L.X.Vưgotxki (1896 – 1934) và học thuyết lịch sử – văn hóa về sự phát
triển các chức năng tâm lí cấp cao
L.X.Vưgotxki là người đặt nền móng cho tâm lí học hoạt động – nền tâm lí
học dựa trên lập trường của triết học Marx. Chỉ khoảng 10 năm nghiên cứu tâm lí
học trong cuộc đời ngắn ngủi 38 năm, ông đã để lại hàng trăm công trình nghiên
cứu tâm lí học. Ngày nay, tư tưởng của ông vẫn mang tính thời sự, những số liệu,
nghiên cứu và giả thuyết của ông vẫn đang được chứng minh. Quan điểm của ông
được đánh giá cao không chỉ bởi các nhà tâm lí học hoạt động mà cả những nhà tâm
lí học Âu – Mỹ. Cùng với J. Piaget, ông được coi là người sáng lập ra tâm lí học
phát triển.
Xuất phát từ quan điểm tâm lí học cần nghiên cứu ý thức con người dựa trên
lập trường triết học duy vật biện chứng, theo nguyên tắc gián tiếp và nguyên tắc lịch
sử - phát sinh, sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích đơn vị và phương pháp
lịch sử - phát sinh, L.X.Vưgotxki đã xây dựng học thuyết lịch sử - văn hóa về các
chức năng tâm lí cấp cao.
Trong học thuyết này, các vấn đề về tư duy trẻ em đã được đề cập đến: nguồn
gốc của tư duy, trí tuệ và của ngôn ngữ, bản chất xã hội của tư duy ngôn ngữ, vai trò
của ngôn ngữ trong tư duy và trí tuệ trẻ em, bản chất của khái niệm khoa học và vai
trò của phương tiện ký hiệu (ngôn ngữ) trong quá trình hình thành và phát triển của
13
nó, sự hình thành và phát triển của ý và nghĩa trong quá trình phát triển từ, tức là
mối quan hệ phát sinh giữa ý, nghĩa và từ ngữ v.v… Trong quá trình giải quyết
những vấn đề trên L.X.Vưgotxki cũng thường xuyên đề cập và tranh luận với nhiều
nhà tâm lý học đương thời có quan điểm khác, đặc biệt là với W.Sterner, J.Piaget,
Keler, J.Watson. Các kết quả nghiên cứu vấn đề này được L.X.Vưgotxki phân tích
trong tác phẩm “Công cụ và kí hiệu trong sự phát triển của trẻ em” (1930) và sau
này được tổng kết trong tác phẩm tâm lý học lớn nhất của ông “Tư duy và ngôn
ngữ” (1934). Sau đây là một số luận điểm chính của L.X.Vưgotxki về vấn đề tư
duy.
- Nguồn gốc phát sinh của tư duy, ngôn ngữ và tư duy ngôn ngữ
Theo L.X.Vưgotxki, tư duy và ngôn ngữ có nguồn gốc khác nhau và đều bắt
nguồn từ hành động. Sự phát triển của tư duy và của ngôn ngữ đến một thời điểm
nhất định sẽ diễn ra sự kết hợp, trong đó tư duy có ngôn ngữ còn ngôn ngữ là ngôn
ngữ trí tuệ.
Sử dụng phương pháp phân tích đơn vị và phương pháp luận lịch sử phát sinh
để phân tích kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lý học lớn đương thời như Keler,
J.Watson, J.Piaget, Sterner v.v… L.X.Vưgotxki đã đi đến những kết luận về nguồn
gốc phát sinh của tư duy, ngôn ngữ xét trên bình diện cá thể:
+ Trong quá trình phát sinh cá thể của tư duy và ngôn ngữ, chúng ta tìm thấy
nguồn gốc khác nhau của hai quá trình này.
+ Trong quá trình phát triển ngôn ngữ trẻ em, chúng ta có thể thừa nhận có
“giai đoạn tiền trí tuệ” cũng như trong quá trình phát triển tư duy có “giai đoạn tiền
ngôn ngữ”.
+ Trước thời điểm nào đó, sự phát triển của tư duy và ngôn ngữ theo hai
đường khác nhau, độc lập với nhau.
+ Tại một thời điểm nào đó, cả hai tuyến cắt nhau, sau đó tư duy trở thành tư
duy ngôn ngữ, còn ngôn ngữ trở thành ngôn ngữ trí tuệ. [20; tr 109]
- Sự phát triển tư duy, ngôn ngữ và tư duy ngôn ngữ ở trẻ em
14
L.X.Vưgotxki không tán thành các quan niệm cực đoan, hoặc cho rằng trí tuệ
cấp cao của người có nguồn gốc từ trí tuệ của khỉ và nó chính là sự tiếp tục trực tiếp
của các nguồn gốc đó, mà không có bước nhảy vọt sang hình thức tồn tại mang tính
chất xã hội; hoặc cho rằng trí tuệ cấp cao là phát kiến vĩ đại của chính đứa trẻ, qua
việc tự nó tìm ra được quan hệ giữa kí hiệu và ý nghĩa của nó, nghĩa là tư duy, trí
tuệ như là hành động tinh thần thuần tuý.
Theo L.X.Vưgotxky, trẻ em chỉ sử dụng công cụ giống như khỉ (trong các
thực nghiệm của Keler) cho đến khi chúng vẫn còn ở giai đoạn phát triển tiền ngôn
ngữ. Nhưng ngay sau khi ngôn ngữ của trẻ được xuất hiện và được đưa vào sử dụng
thì việc sử dụng công cụ của trẻ được đổi mới hoàn toàn, khắc phục được các qui
luật tự nhiên sẵn có và lần đầu tiên tạo ra hình thức sử dụng công cụ đặc trưng cho
loài người. Từ thời điểm này, trẻ nhỏ với sự giúp đỡ của ngôn ngữ, bắt đầu làm chủ
tình huống, làm chủ hành vi bản thân, xuất hiện hình thức tổ chức hành vi hoàn toàn
mới cũng như quan hệ mới với môi trường. Đứa trẻ ở trong điều kiện nảy sinh các
dạng hành vi đặc trưng cho loài người, tách rời khỏi các dạng hành vi động vật, phát
triển trí tuệ và sau đó mang tính chất cơ bản đối với lao động - hình thức sử dụng
công cụ của loài người.
L.X.Vưgotxki cũng nhấn mạnh rằng quá trình phát triển nêu trên không phải là
kết quả của chính hành động trí tuệ (như quan điểm của trường phái Vuxbua), cũng
không phải là sản phẩm của quá trình tự động hoá, xuất hiện như là sự bừng hiểu ở
thời điểm của cuối quá trình hành động (như lí luận của trường phái Gestalt). Ông
đã viết: “Toàn bộ lịch sử phát triển tâm lí của trẻ em đã dạy chúng ta rằng, ngay từ
những ngày đầu tiên, sự thích ứng của nó với môi trường được thực hiện bằng các
phương tiện xã hội thông qua những người xung quanh. Con đường từ đồ vật đều
trẻ em và từ trẻ em đến đồ vật đều đi qua người khác. Chuyển từ con đường phát
triển sinh học sang con đường phát triển xã hội, tạo thành mắt xích trung tâm trong
quá trình phát triển, là bước ngoặt cơ bản trong lịch sử hành vi của trẻ em. Con
đường đi qua người khác là con đường trung tâm của sự phát triển trí tuệ thực
hành”. [20; tr 236]
15