Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 113 trang )
của hợp đồng. Trong quá trình phỏng vấn chúng tôi thấy anh M và chị T đã có
nhận thức đúng về bản chất của loại hình BHNT khi cho rằng: “BHNT vừa là
mang tính tiết kiệm vừa mang tính bảo hiểm vì tham gia nếu gặp rủi ro cũng
nhận được tiền bảo hiểm, không gặp rủi ro cũng được nhận lại tiền, mà lại có
lãi nữa”. Anh M cũng cho chúng tôi biết mục đích của anh chị khi tham gia
BHNT là “dành tiền ra mỗi tháng một ít, để sau này các cháu lớn có một
khoản tiền cho các cháu học đại học và cũng là để mình an tâm về tâm lý nữa
vì gia đình đã được công ty bảo hiểm giúp đỡ”. Như vậy, Anh chị đã chú
trọng đến ý nghĩa tiết kiệm của loại hình này hơn tính bảo hiểm vì anh chị
không nhắc gì tới những quyền lợi được nhận khi gặp rủi ro. Những người đã
tham gia không thích nhắc đến rủi ro và mục đích chính khi tham gia không
phải là để có quyền lợi khi gặp rủi ro mà chủ yếu là để tiết kiệm cho tương lai.
Anh chị cảm thấy rất tin tưởng vào loại hình này khi cho rằng “BHNT được
chính phủ cho phép hoạt động và quản lý, chứng tỏ đây là hình thức hợp pháp
chứ đâu phải lừa gạt. Mấy hôm trước anh cán bộ tư vấn còn mang tới cho xem
một số văn bản của luật kinh doanh bảo hiểm trong đó có cả loại hình BHNT,
do vậy tôi thấy pháp luật sẽ bảo vệ quyền lợi của những người tham gia và
hơn nữa các công ty bảo hiểm cũng phải tuân thủ những quy định này”. Anh
chị đã tin tưởng vào tính pháp lý của loại hình BHNT, tin vào lợi ích của loại
hình này với gia đình mình. Qua quan sát những biểu hiện về những xúc cảm,
tình cảm chúng tôi thấy họ rất hài lòng, thoả mãn và an tâm khi tham gia
BHNT, không thấy có biểu hiện hối tiếc vì đã tham gia BHNT. Chị T nói
thêm “Chúng tôi rất hài lòng với những thủ tục nhanh chóng, thuận tiện và
chu đáo của công ty bảo hiểm và cán bộ tư vấn. Công ty và cán bộ rất quan
tâm tới chúng tôi như đã gửi lịch và quà tặng của công ty vào dịp tết, sinh
nhật. Với chúng tôi những thứ đó chủ yếu có ý nghĩa về mặt tinh thần, nó
chứng tỏ giữa người tham gia và công ty có mối quan hệ tốt đẹp”. Anh cho
rằng các công ty bảo hiểm cần thực hiện tốt những việc chăm sóc khách hàng
để duy trì mối quan hệ tin cậy giữa người tham gia và công ty, củng cố trạng
100
thái tin tưởng của khách hàng vào công ty, vào loại hình BHNT này. Anh chị
cũng thường xuyên giải thích về loại hình BHNT cho người khác và khuyên
họ hàng, người thân, bạn bè, hoặc hàng xóm nên tham gia BHNT để tiết kiệm,
để có một tương lai an toàn. Anh còn có niềm tin vững chắc vào loại hình
BHNT khi cho rằng những người mà nói BHNT là loại hình lừa gạt, tham gia
chẳng có lợi ích gì là “người đó chẳng hiểu gì về loại hình BHNT cả. Nếu tôi
mà nghe thấy vậy sẽ giải thích rõ ràng để họ thay đổi nhận thức sai lầm đó.
Anh chị có thái độ rất tích cực với loại hình BHNT nên không những đã tham
gia 2 hợp đồng BHNT mà còn có nhiều hành động tích cực ủng hộ, tuyên
truyền về loại hình BHNT cho người khác nữa.
Đây là trường hợp vừa có điều kiện về mặt tài chính lại vừa có nhận
thức đúng đắn và niềm tin vững chắc vào loại hình này (tức là có thái độ tích
cực với loại hình này). Họ không những đã tham gia nhiều hợp đồng bảo
hiểm mà còn có nhiều hành vi ủng hộ tích cực cho loại hình này.
2. Trường hợp thứ 2: Gia đình anh N.S.H 34 tuổi làm việc tại phòng tổ
chức cán bộ của nhà máy ô tô Hoà Bình và chị H.T.L 33 tuổi y tá của viện
103, hiện tại anh chị đã có hai con. Anh H đã kiên quyết từ chối không tham
gia BHNT, mặc dù nhiều lần cán bộ tư vấn của công ty Bảo Việt đã đến tận
nhà tư vấn, mời anh chị tham gia. Anh H từ chối không tham gia với lý do
không tin tưởng loại hình này và cũng không có nhu cầu tham gia. Anh cho
rằng “BHNT chỉ là hình thức các công ty bảo hiểm chiếm dụng vốn của người
dân rồi cho các công ty khác vay. Nó gần như hình thức lừa gạt người dân, vì
người tham gia được trả lãi suất thấp hơn của ngân hàng nhiều”. Anh H đã
chưa hiểu đúng khía cạnh bảo hiểm trong bản chất của loại hình BHNT. Anh
chỉ nhận thức đuợc ý nghĩa tiết kiệm mà không thấy được ý nghĩa bảo hiểm
của loại hình này. Đúng vậy, tham gia BHNT sẽ nhận được lãi suất thấp hơn
lãi suất khi gửi tiền ở ngân hàng vì loại hình BHNT còn mang tính bảo hiểm,
phòng tránh rủi ro. Nhưng gửi tiền ngân hàng thì con người không được bảo
hiểm đề phòng và giảm khó khăn trong trường hợp rủi ro. Anh H đã không
101
thấy được ưu điểm này của loại hình BHNT so với gửi tiền tiết kiệm ở ngân
hàng. Anh H còn cho rằng “Loại hình BHNT chỉ làm giàu cho các công ty
bảo hiểm và một số người khác, chứ người tham gia thì chẳng có lợi gì cả”.
Do xuất phát từ việc nhận thức chưa đúng về bản chất của loại hình BHNT
cho nên anh cũng chưa thấy được lợi ích thiết thực của loại hình này với mình
và gia đình mình. Anh H cũng không tin tưởng vào loại hình BHNT khi anh
cho đó như là “hình thức lừa gạt”, rồi lại băn khoăn “khi đóng tiền thì dễ
nhưng sau này biết có nhận lại được số tiền đó không? có khi tham gia lại mất
hết tiền nếu công ty bảo hiểm phá sản”. Anh H chưa thực sự tin tưởng vào
loại hình BHNT vì anh không nhận thấy tính pháp lý của loại hình này, chưa
nhận biết được rằng nhà nước đã quản lý, kiểm soát các công ty bảo hiểm
chặt chẽ, đã giữ số vốn pháp định của các công ty bảo hiểm. Nếu công ty bảo
hiểm đầu tư không có hiệu quả thì các hợp đồng của doanh nghiệp đó sẽ được
chuyển sang một doanh nghiệp bảo hiểm khác hoặc doanh nghiệp tái bảo
hiểm. Người tham gia sẽ không bị thiệt gì và vẫn đảm bảo những quyền lợi
như cam kết trong hợp đồng nếu doanh nghiệp bảo hiểm bị phá sản. Anh H có
khả năng tài chính nhưng chưa nhận thức đúng về bản chất, ý nghĩa của loại
hình BHNT, mặc dù được cán bộ tư vấn giải thích nhưng do nhận thức chưa
đúng đó, anh H chưa thật sự tin tưởng vào loại hình này. Đó chính là những
rào cản tâm lý khiến anh kiên quyết từ chối tham gia BHNT.
Trường hợp này xuất phát từ những nhận thức chưa đúng về loại hình
BHNT dẫn đến chưa có niềm tin vào loại hình này, vì vậy anh H đã kiên
quyết từ chối không tham gia mặc dù có đầy đủ những điều kiện về kinh tế và
dã được cán bộ tư vấn mời tham gia.
3. Trường hợp thứ ba: Bác sỹ N.B.H 45 tuổi, làm việc tại viện quân y
108. Chị là một trong số ít người đã tham gia BHNT ngay từ thời gian bắt đầu
triển khai loại hình này ở nước ta chị cho biết: “Tôi là một trong những người
tham gia BHNT đầu tiên của Bảo Việt, khi trên thị trường mới xuất hiện loại
hình này. Đến ngày 28/10 năm nay (2003) tôi sẽ được nhận số tiền bảo hiểm
102
do công ty Bảo việt Hà Nội chi trả. Tôi cảm thấy rất sung sướng vì có được
một khoản tiền đúng kế hoạch đã dự định. Theo tôi loại hình BHNT có ý
nghĩa xã hội sâu sắc bởi tham gia BHNT là thể hiện sự chia sẻ cộng đồng.
Nếu rủi ro xảy đến với mình, gia đình sẽ được nhận một khoản thu nhập để
vượt qua khó khăn. Hơn nữa việc tham gia rất tiện lợi, thủ tục đơn giản, cán
bộ tư vấn dễ hiểu, phong cách phục vụ nhiệt tình chu đáo, mọi hoạt động từ tư
vấn, kê khai giấy yêu cầu đóng phí, đều diễn ra tại nhà tiết kiệm được thời
gian và chi phí đi lại. Tôi dự định sẽ tái hợp đồng mới sau khi nhận số tiền
bảo hiểm vào tháng 10 này”. Như vậy, chị H đã nhận thức rất đúng về bản
chất và lợi ích của loại hình bảo hiểm này, rất tin tưởng loại hình này, hài
lòng với thủ tục, các dịch vụ hậu mãi của loại hình này. Chị H đã tham gia
BHNT ngay từ khi loại hình này mới được triển khai và khi hết hạn hợp đồng
chị lại tiếp tục tham gia tiếp, ký kết hợp đồng khác.
Trong trường hợp này, chị H đã có niềm tin rất sâu sắc vào ý nghĩa của việc
tham gia BHNT mang lại cho chị và gia đình chị, vì vậy chị là một trong những
người tham gia BHNT từ khi loại hình này mới bắt đầu triển khai ở Hà Nội
4. Trường hợp thứ tư: Chị N.T.H 32 tuổi, nông dân ở Cổ Loa - Đông
Anh mặc dù kinh tế gia đình chị cũng vẫn còn khó khăn, nguồn thu chủ yếu từ
trồng rau và chăn nuôi, nhưng chị vẫn dành dụm mỗi tháng 150.000 đồng để
tham gia loại hình bảo hiểm “An sinh giáo dục” của công ty Bảo việt Hà Nội
cho con chị. Chị H cho rằng tham gia BHNT là đem lại lợi ích thiết thực, chị
đánh giá cao tính tiết kiệm của loại hình này khi chị đã tham gia BHNT “Việc
mua BHNT là một hình thức tiết kiệm có sinh lời. đặc biệt khi có rủi ro xảy ra
(tất nhiên là không ai muốn cả) người tham gia bảo hiểm và người được bảo
hiểm có ngay nguồn tài chính hợp lý để giải quyết vấn đề mà không phải chạy
vạy, xoay sở vất vả. Riêng tôi muốn dành một khoản tiền đáng kể cho con tôi
vào những bước ngoặt quan trọng của cuộc đời như học hành, thi cử, xây
dựng gia đình hay mưu sinh lập nghiệp bằng chính việc tiết kiệm những
khoản tiền phù hợp khả năng của mình. Phải thừa nhận rằng mua BHNT có
103
lợi ích thiết thực”. Chị H là người đã nhận thức rất rõ ý nghĩa tiết kiệm của
loại hình này, để có một khoản tài chính vững chắc trong tương lai dành cho
con cái tạo lập sự nghiệp như học đại học, học nghề, kinh doanh…Chính vì
vậy dù kinh tế còn khó khăn nhưng chị H vẫn cố gắng dành một khoản tiền
phù hợp với khả năng, hoàn cảnh kinh tế của gia đình để tham gia BHNT
Trường hợp này thì niềm tin vào BHNT ở đây không phụ thuộc vào
kinh tế. Mặc dù kinh tế vẫn còn khó khăn nhưng do chị đã nhận thấy được lợi
ích của việc tham gia BHNT với tương lai của con mình và gia đình mình
cho nên hàng tháng chị cố gắng dành dụm tiền để tham gia BHNT.
5. Trường hợp thứ năm: Chị N.N.O 26 tuổi, nhân viên bán hàng, ban
đầu khi được cán bộ tư vấn mời tham gia chị đã từ chối với lý do khả năng tài
chính chưa cho phép. Nhưng qua tiếp xúc cán bộ tư vấn thấy lý do chính chị
từ chối không phải là do khó khăn về tài chính mà là do chị O nhận thức chưa
đúng, chưa tin loại hình BHNT. Chị nói “Tôi thấy một số bạn bè tôi nói
không nên tham gia BHNT, tham gia là mất hết tiền, không lấy lại được vì
vậy tôi cũng chẳng biết thế nào”. Do chị O đã nghe những dư luận không
đúng về loại hình BHNT từ bạn bè, đồng nghiệp cho nên chị rất nghi ngờ loại
hình này, lo sợ tham gia sẽ bị thua thiệt, cho nên tốt nhất là không tham gia.
Cán bộ tư vấn nhận biết được những trở ngại tâm lý đó của chị O nên đã kiên
trì giải thích cho chị, giải toả những thắc mắc của chị. Đặc biệt đã nhấn mạnh
những lợi ích, quyền lợi chị sẽ được nhận khi tham gia BHNT, cung cấp
những thông tin về tính pháp lý của loại hình này và công ty bảo hiểm, đưa ra
những dẫn chứng về một số những trường hợp đã được công ty chi trả khi gặp
rủi ro, hoặc hết hạn hợp đồng mà chị O cũng biết. Những cố gắng của cán bộ
tư vấn đã làm cho chị O dần dần nhận thức được đúng bản chất, lợi ích của
loại hình này, làm cho chị O hoàn toàn an tâm tin tưởng loại hình này. Chị đã
nhận ra rằng BHNT không phải là hình thức lừa đảo như một số người nói với
chị trước đây. Tham gia BHNT chắc chắn sẽ được công ty thực hiện đúng như
cam kết vì đã được pháp luật bảo vệ và mang lại nhiều lợi ích với cuộc sống
104
của mình và gia đình. Do đã nhận thức đúng và tin tưởng loại hình này nên
chị O đã quyết định tham gia sản phẩm Phú tích luỹ của công ty bảo hiểm
Prudental thời hạn 10 năm.
Như vậy, trường hợp của chị O ban đầu do có thái độ chưa tích cực với
loại hình này nên đã từ chối không tham gia, nhưng sau khi được cán bộ tư
vấn giải thích, cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ nên đã có sự thay đổi thái
độ đối với loại hình này ở chị O. Sự thay đổi từ thái độ tiêu cực với loại hình
này sang thái độ tích cực và khi chị đã hình thành thái độ tích với loại hình
này và chị đã quyết định tham gia BHNT.
105
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
A. KẾT LUẬN CHUNG
Sau khi tiến hành nghiên cứu thái độ của người dân Hà Nội với loại
hình BHNT trên cơ sở của các kết quả nhận được, chúng tôi có thể rút ra
những kết luận sau:
1. Phần lớn người dân đã có thái độ tích cực với loại hình BHNT, biểu
hiện cụ thể là đã có nhận thức đúng và đầy đủ về các đặc trưng của loại hình
này, có xúc cảm tình cảm dương tính (niềm tin) vào loại hình này và có
những hành vi tích cực, ủng hộ loại hình này.
2. Thái độ với loại hình BHNT ở những người đã tham gia và chưa
tham gia có sự khác nhau cơ bản. Hầu hết những người tham gia đều có thái
độ tích cực với loại hình BHNT. Nhưng còn khá nhiều người chưa tham gia
thường có thái độ chưa tích cực với loại hình này. Biểu hiện là nhận thức về
loại hình BHNT còn chưa đúng, còn nhầm sang loại hình bảo hiểm khác. Có
những xúc cảm tiêu cực với loại hình BHNT này như thiếu tin tưởng vào loại
hình này. Có những hành động phản đối, tẩy chay việc triển khai loại hình
này. Như vậy, có thể khẳng định rằng để tham gia BHNT thì yếu tố tiên quyết
là người dân phải có thái độ tích cực với loại hình này.
3. Cụ thể về mặt nhận thức: hầu hết những người đã tham gia nhận
thức đúng đắn, đầy đủ về bản chất, đặc trưng, vai trò ý nghĩa của loại hình
BHNT, cũng như đối tượng thời gian tham gia, quyền lợi khi tham gia BHNT.
Trong khi đó khá nhiều người chưa tham gia đã nhận thức chưa đúng hay đã
nhầm loại hình BHNT với các loại hình khác (như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế, bảo hiểm phi nhân thọ, hay như hình thức gửi tiền tiết kiệm đơn thuần).
Một số khá lớn người chưa tham gia còn cho rằng BHNT là hình thức chiếm
dụng vốn, không có ý nghĩa gì với con người và với xã hội, hay chỉ là hình
thức dành cho người giàu, không nhận thức được những đặc tính ưu việt của
loại hình này.
106
4. Về mặt xúc cảm, tình cảm: Những người đã tham gia thường có
những trạng thái xúc cảm, tình cảm dương tính với loại hình BHNT như: cảm
thấy hài lòng, thoả mãn, không hối tiếc khi mình đã quyết định tham gia
BHNT, có niềm tin vững chắc vào loại hình này. Họ hài lòng với sự chăm sóc
phục vụ chu đáo tận tình của nhân viên tư vấn, của công ty bảo hiểm. Còn
một tỷ lệ lớn những người chưa tham gia có những xúc cảm, tình cảm âm tính
với loại hình này như: thờ ơ, chưa có niềm tin và thường nghi ngờ tính pháp
lý của loại hình này. Những người dân đã có niềm tin vào loại hình BHNT là
do họ đã tin vào tính pháp lý của loại hình này. Họ tin tưởng vào tính hợp
pháp, uy tín của các công ty bảo hiểm và uy tín của các cán bộ tư vấn. Niềm
tin vào loại hình BHNT ở những người đã tham gia thường rất bền vững. Còn
đa số những người chưa tham gia lại dễ dao động, mất phương hướng khi có
những dư luận, tin đồn không đúng về loại hình BHNT. Nếu xét theo giới tính
thì nữ giới thường dễ có niềm tin vào loại hình BHNT hơn so với nam giới,
dễ bị thuyết phục tham gia BHNT.
5. Về mặt hành vi: nguyên nhân chủ yếu cản trở những người chưa
tham gia BHNT là do họ nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về loại hình này,
do chưa thực sự tin tưởng loại hình bảo hiểm này, vào công ty bảo hiểm và
cán bộ tư vấn (tức là họ chưa có thái độ tích cực với loại hình này). Chỉ có
một số ý kiến cho rằng họ chưa tham gia BHNT là do khả năng tài chính của
họ chưa cho phép. Những người đã tham gia thường có những hành vi tích
cực với loại hình BHNT như: Họ thường xuyên giải thích cho bạn bè, người
thân, đồng nghiệp hiểu về loại hình này; Đấu tranh với dư luận không đúng về
loại hình này; Khuyên người khác nên tham gia, hay có hành vi ủng hộ những
người khác tham gia BHNT. Những người chưa tham gia thường có những
hành vi tiêu cực với loại hình BHNT như: thường phê phán, phản đối loại
hình này, hoặc không ủng hộ cũng không phản đối loại hình này. Một số
người chưa tham gia còn có những hành vi ngăn cản người khác tham gia, tẩy
chay loại hình này.
107
6. Người dân đã được biết tới loại hình BHNT qua nhiều nguồn thông
tin khác nhau như: phương tiện truyền thông đại chúng, bạn bè, đồng nghiệp,
cán bộ tư vấn. Nhận thức về loại hình BHNT mà những người đã tham gia có
được chủ yếu là do cán bộ tư vấn cung cấp, cho nên những nhận thức đó
thường rất đúng đắn và đầy đủ. Trong khi đó phần lớn những người chưa
tham gia lại chỉ biết đến loại hình này chủ yếu qua phương tiện truyền thông
đại chúng, qua người khác cho nên nhận thức của họ chưa đúng, chưa đầy đủ.
Vì vậy, chúng tôi cho rằng cán bộ tư vấn chính là nguồn quan trọng cung cấp
những thông tin đúng đắn đầy đủ về loại hình BHNT cho người dân.
7. Thái độ của người dân Hà nội với mỗi doanh nghiệp triển khai loại
hình BHNT này cũng khác nhau. Người dân thường có thái độ tin tưởng vào
doanh nghiệp của nhà nước, khi cho rằng doanh nghiệp này được nhà nước
bảo hộ nên không thể bị phá sản, do đó tham gia BHNT ở các doanh nghiệp
này thì an tâm hơn. Nhưng họ không thích doanh nghiệp nhà nước ở chỗ có
nhiều thủ tục rườm rà, dịch vụ chậm chạp, chưa chu đáo. Những người tham
gia ở các doanh nghiệp nước ngoài thì thường có thái độ tin tưởng vào các
doanh nghiệp này ở khía cạnh bề dầy truyền thống, có chi nhánh ở nhiều quốc
gia (công ty đa quốc gia), các thủ tục nhanh chóng thuận tiện, có dịch vụ
chăm sóc nhiệt tình chu đáo.
B. KIẾN NGHỊ
Từ những kết luận được rút ra trong công trình nghiên cứu này, chúng
tôi cũng xin đưa ra một số kiến nghị cho các công BHNT, để các công ty
BHNT sử dụng các tri thức tâm lý học xây dựng chiến lược cụ thể thúc đẩy
nhiều người dân tham gia BHNT hơn nữa.
1.Thái độ với loại hình BHNT ảnh hưởng quyết định tới việc người dân
tham gia hay không tham gia BHNT, cho nên các công ty bảo hiểm cần phải
tạo cho người dân có thái độ tích cực với loại hình này. Cụ thể cần làm cho họ
có những nhận thức đúng đắn, đầy đủ về loại hình BHNT này. Cần tạo cho
108
người dân có niềm tin vào loại hình này thông qua các chiến dịch quảng cáo,
thúc đẩy kinh doanh của mình. Các công ty bảo hiểm cần chú ý cả nội dung
và hình thức quảng cáo. Về nội dung cần cụ thể, dễ hiểu và trung thực nên tác
động vào yếu tố xúc cảm tình cảm của người dân, ví dụ như đưa ra những
hình ảnh vui vẻ, an nhàn, thảnh thơi của gia đình, hình ảnh con cái thành đạt
vì đã tham gia BHNT. Về hình thức cần đa dạng như qua sách, báo, truyền
thanh, truyền hình, internet, tờ rơi, biển quảng cáo ngoài trời.
2. Người dân tin tưởng loại hình BHNT chủ yếu tin ở tính pháp lý của
loại hình này, cho nên để tạo ra niềm tin và củng cố niềm tin của người dân
với loại hình BHNT cần có những cuộc nói chuyện hay phổ biến thông tin về
loại hình này của một số vị lãnh đạo trong chính phủ, trong ngành bảo hiểm
qua những chương trình truyền hình, truyền thanh hay hội chợ. Các công ty
bảo hiểm nên nêu cụ thể tên và địa chỉ của một số trường hợp đã tham gia
BHNT mà đã được công ty bảo hiểm giải quyết quyền lợi bảo hiểm đúng như
cam kết, hay những người đã đáo hạn hợp đồng trên các phương tiện truyền
thông đại chúng. Các công ty BHNT cũng nên tham gia các hội chợ thương
mại, tài trợ cho các hoạt động xã hội, tặng quà cho khách hàng…Các công ty
bảo hiểm nên tổ chức hội nghị khách hàng, tham gia họp báo, thực hiện tốt
các dịch vụ chăm sóc khách hàng để khách hàng thêm tin, thêm yêu loại hình
BHNT mà gắn bó với loại hình này. Từ đó họ sẽ trở thành những tuyên truyền
viên tích cực có hiệu quả cho công ty, cho loại hình BHNT và cũng là củng cố
niềm tin ở những người đã tham gia để hạn chế tình trạng huỷ bỏ hợp đồng
trước thời hạn.
3. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy nữ giới rất quan tâm, hứng thú với
loại hình này. Nữ giới cũng là người có vai trò chủ yếu khi quyết định tham
gia hay không tham gia BHNT. Do vậy, các chiến dịch quảng cáo về loại hình
BHNT nên hướng trọng tâm vào phụ nữ. Ví dụ như quảng cáo trên các báo,
tạp chí mà phụ nữ thường đọc như : Tạp chí Phụ nữ, Tạp chí hạnh phúc gia
đình, cẩm nang gia đình, báo Sài Gòn tiếp thị, báo gia đình xã hội, Tạp chí
109
Đời sống mỹ thuật…Nên đặt các biển quảng cáo về loại hình BHNT ở những
nơi mà phụ nữ thường hay đến như trong các siêu thị, các chợ, các cửa hàng.
4. Người dân nhận thức đúng đắn và đầy đủ về loại hình BHNT chủ
yếu qua cán bộ tư vấn. Cán bộ tư vấn chính là người đại diện cho công ty, cho
cả loại hình BHNT. Vì vậy, các công ty bảo hiểm cần chú trọng đào tạo nhân
viên tư vấn có chuyên môn, có khả năng giao tiếp, thuyết phục, có uy tín, có
đạo đức, và mang tính chuyên nghiệp cao. Tính chuyên nghiệp của cán bộ tư
vấn được thể hiện như sau:
+ Về trang phục phải đảm bảo trang nhã lịch sự để tạo ra một ấn tượng
ban đầu tốt khi tiếp xúc với người dân, ví dụ như: với nam giới áo trắng, hoặc
màu nhạt dài tay, thắt cà vạt, quần sẫm màu. Nữ giới áo veston, váy hoặc
quần đồng bộ sẫm màu. Việc tạo ra một ấn tượng ban đầu tốt trong quá trình
giao tiếp rất quan trọng để đạt được mục đích giao tiếp của con người.
+ Về phương pháp giao tiếp cán bộ tư vấn bảo hiểm phải thận trọng đến
từng lời nói, phải lên kế hoạch nghiên cứu thật kỹ những thông tin về từng đối
tượng người dân cụ thể và chuẩn bị sẵn các phương án trước khi tiếp xúc với
người dân
+ Về kiến thức chuyên môn phải sâu rộng, một óc linh hoạt để có thể
đưa ra những giải pháp xử lý kịp thời đối với từng tình huống.
5. Trong quá trình tư vấn cán bộ tư vấn chú ý phải cung cấp đầy đủ
những thông tin về quyền lợi mà người tham gia được nhận và trách nhiệm
của người tham gia một cách trung thực. Cán bộ tư vấn phải giải thích kỹ
lưỡng cho người tham gia những cam kết, những điều khoản trong hợp đồng
(đặc biệt là khái niệm phức tạp như giá trị giải ước) để tránh tình trạng người
tham gia bị thua thiệt vì chưa hiểu rõ những quy định chặt chẽ của loại hình
này. Đó là cách tốt nhất để hạn chế những vụ việc giải quyết không ổn thoả
giữa người tham gia và công ty bảo hiểm đã phải đưa ra công luận. Điều đó
vừa làm cho những người tham gia bị thua thiệt, họ đã cho rằng mình đã bị
công ty bảo hiểm lừa và cho rằng BHNT là hình thức lừa gạt, vừa làm nảy
110