Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.63 KB, 112 trang )
hãm sự phát triển của công chứng. Từ đó tác động tiêu cực đến hoạt động giao
l-u dân sự, kinh tế của các cá nhân, tổ chức làm ảnh h-ởng đến sự phát triển
của nền kinh tế. Thông qua thực tế hoạt động nghiệp vụ công chứng và nghiên
cứu chế định công chứng trên ph-ơng diện lý luận nhận thấy những mặt hạn
chế, bất cập chủ yếu của pháp luật trong lĩnh vực công chứng đ-ợc thể hiện
qua những điểm chính sau đây:
Thứ nhất: Mặc dù Luật Công chứng ra đời đã phân định đ-ợc hai hoạt
động có liên quan nhiều nhất đến nhau, đó là hoạt động chứng thực và hoạt
động công chứng. Nh-ng thực tế, sự phân biệt đó chỉ dựa trên một yếu tố duy
nhất đó là chủ thể của hai hoạt động này. Công chứng là hành vi của Công
chứng viên, chứng thực là hành vi của các công chức, viên chức nhà n-ớc
(Tr-ởng phòng T- pháp, Phó Tr-ởng phòng T- pháp; Chủ tịch, Phó Chủ tịch
ủy ban nhân dân cấp xã; viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao của cơ quan
đại diện Việt Nam ở n-ớc ngoài...). Xét trên tính chất thì hai hoạt động này
hoàn toàn khác nhau, hoạt động công chứng là hoạt động bổ trợ t- pháp, mang
tính chuyên môn nghiệp vụ cao và mang tính chất dịch vụ công, nó không bao
hàm yếu tố quản lý nhà n-ớc. Hoạt động chứng thực là hành vi thị thực hành
chính thuần túy của cơ quan công quyền, nó mang tính chất quản lý của nhà
n-ớc, hoạt động này th-ờng đ-ợc kiêm nhiệm bởi công chức, viên chức nhà
n-ớc. Công chứng là hành vi làm chứng và chứng nhận của Công chứng viên,
hành vi chứng thực không mang tính làm chứng mà nó chỉ là hành vi chứng
nhận. Hành vi chứng thực nhiều khi là sự cho phép hay không cho phép của
các cơ quan nhà n-ớc để cá nhân hay tổ chức thực hiện một hành vi, một giao
dịch... Hoạt động công chứng bao gồm cả một quy trình phức tạp để xác nhận
một hợp đồng, một giao dịch nh-: xác định năng lực hành vi dân sự của các
chủ thể, xác định đối t-ợng của các hợp đồng, xác định giao dịch có thực hay
không, theo quy định của pháp luật có đ-ợc thực hiện hay không... Công
chứng chứng nhận các hành vi, thỏa thuận đã và đang xảy ra (ví dụ: hai bên đã
thỏa thuận các điều kiện, đã thực hiện hoạt động chuyển nh-ợng tài sản, nay
43
yêu cầu công chứng chứng nhận để làm thủ tục sang tên cho bên mua tại cơ
quan có thẩm quyền đối với các tài sản mà pháp luật yêu cầu phải đăng ký sở
hữu, sử dụng...) hoặc sẽ xảy (ví dụ: bên thế chấp tài sản thế chấp tài sản hình
thành trong t-ơng lai cho bên nhận thế chấp phải thực hiện việc mua, tạo lập
các tài sản nh- đã thỏa thuận; các bên sẽ phải thực hiện các hành vi nh- đã
thỏa thuận với nhau trong hợp đồng...). Hành vi chứng thực là hành vi chứng
nhận một sự thật đã xảy ra (ví dụ: chứng nhận ông A đã sinh sống tại địa chỉ B
từ ngày tháng này đến ngày tháng kia), chứng nhận một sự kiện có thực (ví
dụ: chứng nhận ông C có đến trình báo một việc D...), chứng nhận tính xác
thực của các giấy tờ (chứng thực bản sao các văn bằng, chứng chỉ, giấy tờ... đó
là các hành vi, các sự kiện đã xảy ra chứ hoàn toàn không chứng nhận các hành
vi sẽ xảy ra. Hoạt động này không mang tính làm chứng hay chứng nhận các
hành vi tự nguyện thỏa thuận của các bên nh- hoạt động công chứng mà chỉ đơn
giản là hoạt động thị thực hành chính trong quá trình thực hiện hoạt động hành
chính nhà n-ớc của công chức viên, chức nhà n-ớc. Vì là hoạt động mang tính
hành chính lên hoạt động này có thể bị khiếu nại, khiếu kiện theo con đ-ờng
hành chính hoặc bị khởi kiện ra tòa hành chính. Trong khi đó hoạt động công
chứng ngoài việc bị khiếu nại khi từ chối công chứng thì theo con đ-ờng hành
chính còn các tranh chấp khác liên quan đến giá trị văn bản công chứng hay
hoạt động công chứng đều do Tòa án giải quyết. Luật Công chứng quy định:
Giá trị pháp lý của văn bản công chứng:
1. Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan;
trong tr-ờng hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên
kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ
tr-ờng hợp các bên có thỏa thuận khác.
2. Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện
trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ tr-ờng hợp bị Tòa án
tuyên bố là vô hiệu (Điều 6).
44
Giải quyết tranh chấp:
Trong tr-ờng hợp giữa ng-ời yêu cầu công chứng và Công chứng viên,
tổ chức hành nghề công chứng có tranh chấp liên quan đến hoạt động hành
nghề công chứng thì các bên có quyền khởi kiện vụ việc ra Tòa án để giải
quyết tranh chấp đó (Điều 64).
Hoạt động công chứng và chứng thực là hai hoạt động hoàn toàn khác
nhau về bản chất nh- đã phân tích ở trên. Do vậy, việc ch-a có sự phân biệt
rạch ròi giữa hai hoạt động này về mặt lý luận cũng nh- trong văn bản pháp
luật đã dẫn đến những hậu quả sau:
Một là, ch-a phân biệt đ-ợc phạm vi công chứng và chứng thực, nhiều
việc cùng do hai chủ thể hoàn toàn khác nhau về địa vị pháp lý thực hiện. Việc
quy định nh- vậy dẫn tới sự chồng chéo trong công tác quản lý, đồng nhất giá
trị của hai hoạt động này. Một cơ quan vừa làm công tác quản lý, vừa thực
hiện các công việc mang tính chất làm chứng, dịch vụ, nh- vậy không đảm
bảo tính khách quan mà đó là một đòi hỏi mang tính bắt buộc đối với các hợp
đồng, giao dịch. Làm tăng số l-ợng công việc trong các cơ quan hành chính,
từ đó dẫn đến chất l-ợng công việc bị giảm và làm tăng biên chế trong bộ máy
hành chính. Việc quy định Công chứng viên là ng-ời đ-ợc đào tạo chuyên sâu
về công chứng và ng-ời không đ-ợc đào tạo nh- Công chứng viên (các cán bộ
kêm nhiệm trong cơ quan nhà n-ớc) lại cùng đ-ợc thực hiện một công việc là
điều bất hợp lý. Hơn nữa, do việc kiêm nhiệm, sự thiếu chuyên nghiệp của
ng-ời làm công tác chứng thực cũng làm cho hiệu quả công việc nói chung và
công việc chứng thực nói riêng không cao. Có thể kể ra một số công việc theo
quy định của pháp luật do cả hai chủ thể này cùng thực hiện:
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định về việc nhập tài sản
riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung nh- sau:
45
Việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có
giá trị lớn thuộc sở hữu riêng của một bên vợ chồng theo quy định tại khoản 2
Điều 32 của Luật Hôn nhân và gia đình phải đ-ợc lập thành văn bản, có chữ
ký của cả vợ và chồng. Văn bản đó có thể đ-ợc công chứng hoặc chứng thực
theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 13).
Luật đất đai năm 2003 quy định:
Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân phải
có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, ph-ờng, thị trấn nơi có đất hoặc chứng
nhận của công chứng nhà n-ớc (Đoạn 2 điểm b khoản 1 Điều 126).
Hợp đồng chuyển nh-ợng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của
công chứng nhà n-ớc; tr-ờng hợp hợp đồng chuyển nh-ợng quyền sử dụng đất
của hộ gia đình, cá nhân thì đ-ợc lựa chọn hình thức chứng nhận của công
chứng nhà n-ớc hoặc chứng thực của ủy ban nhân dân xã, ph-ờng, thị trấn
nơi có đất (Đoạn 2, điểm b khoản 1 Điều 127).
Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng
nhà n-ớc; tr-ờng hợp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá
nhân thì đ-ợc lựa chọn hình thức chứng nhận của công chứng nhà n-ớc hoặc
chứng thực của ủy ban nhân dân xã, ph-ờng, thị trấn nơi có đất (Đoạn 2, điểm b
khoản 1 Điều 128).
Văn bản cam kết tặng cho hoặc hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
của hộ gia đình, cá nhân, ng-ời Việt Nam định c- ở n-ớc ngoài phải có chứng
thực của ủy ban nhân dân xã, ph-ờng, thị trấn nơi có đất hoặc chứng nhận của
công chứng nhà n-ớc (đoạn 3, điểm b khoản 1 Điều 129).
Hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất phải có chứng
nhận của công chứng nhà n-ớc; tr-ờng hợp hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng
quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì đ-ợc lựa chọn hình thức chứng
nhận của công chứng nhà n-ớc hoặc chứng thực của ủy ban nhân dân xã,
ph-ờng, thị trấn nơi có đất (đoạn 2, điểm a khoản 1 Điều 130).
46
Hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của
công chứng nhà n-ớc; tr-ờng hợp hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất
của hộ gia đình, cá nhân thì đ-ợc lựa chọn hình thức chứng nhận của công
chứng nhà n-ớc hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, ph-ờng, thị trấn nơi
có đất (đoạn 2, điểm a khoản 1 Điều 131).
Trong quá trình xây dựng Luật Công chứng, chúng ta đã cố gắng thể
hiện quan điểm mới nhằm tách công chứng ra khỏi phạm vi thẩm quyền của
cá nhân, tổ chức nằm trong hệ thống cơ quan hành chính nhà n-ớc thì tại Luật
Đất đai năm 2003 ra đời tr-ớc đó các nhà làm luật không những đã đồng nhất
công chứng nh- một hoạt động mang đậm tính chất quản lý hành chính nhà
n-ớc mà còn giao một phần công việc thuộc lĩnh vực công chứng cho tổ chức
nằm trong bộ máy hành chính mà cụ thể là ủy ban nhân dân cấp xã. Do vậy
phải nhanh chóng sửa đổi các quy định không hợp lý trong các văn bản pháp
luật cho phù hợp với quan điểm và ph-ơng h-ớng xây dựng pháp luật đ-ợc đề
ra trong quá trình hoàn thiện pháp luật.
Hai là, chính vì ch-a có sự phân định rạch ròi hoạt động công chứng
và hoạt động chứng thực lên một số công việc của công chứng bị chuyển sang
chứng thực. Về khía cạnh này, Luật Công chứng ra đời sau và có giá trị thi
hành cao hơn nh-ng lại có điểm bị thụt lùi so với Nghị định 75/CP. Đó là
chuyển việc chứng nhận chữ ký của cá nhân từ công chứng sang chứng thực.
Theo Nghị định 75/CP thì hành vi này thuộc hoạt động công chứng còn Luật
Công chứng lại không quy định hành vi này, nó lại đ-ợc quy định trong Nghị
định 79/2007/ NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ quy định về việc cấp
bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và
thuộc thẩm quyền của ủy ban nhân dân. Thực chất hành vi chứng nhận chữ ký
của cá nhân luôn đi kèm với một văn bản cụ thể mà cá nhân đó ký tên lên chứ
không phải chứng nhận riêng một chữ ký. Do đó, việc xem xét tính hợp pháp
của văn bản đó, cộng với quy trình thực hiện việc chứng nhận này nh- đòi hỏi
phải: xác định năng lực hành vi dân sự của ng-ời yêu cầu chứng nhận, xác
47
định mục đích việc chứng nhận,... cũng mang đầy đủ tính chất nh- hoạt động
công chứng. So sánh hành vi chứng nhận chữ ký với hành vi chứng nhận việc
ký trên các hợp đồng, giao dịch là hoàn toàn giống nhau về bản chất. Chính vì
sự giống nhau này lên trong thực tế, có nhiều việc không thể quy về việc
chứng nhận chữ ký hay công chứng hợp đồng giao dịch, từ đó dẫn đến khó
khăn trong quá trình thực hiện. Luật Công chứng quy định về lời chứng của
Công chứng viên:
Lời chứng của Công chứng viên phải ghi rõ thời gian, địa
điểm công chứng, họ, tên Công chứng viên, tổ chức hành nghề công
chứng; chứng nhận ng-ời tham gia hợp đồng, giao dịch là tự
nguyện, có năng lực hành vi dân sự, mục đích, nội dung của hợp
đồng, giao dịch không vi phạm pháp luật; không trái đạo đức xã hội,
đối t-ợng hợp đồng, giao dịch là có thật, chữ ký trong hợp đồng,
giao dịch là đúng chữ ký của ng-ời tham gia hợp đồng, giao dịch;
có chứ ký của Công chứng viên và đóng dấu của tổ chức hành nghề
công chứng [38, Điều 5].
Thực tế khi chứng nhận một hợp đồng, giao dịch theo quy định của
pháp luật hiện hành phải chứng nhận cả nội dung và hình thức. Nội dung của
hợp đồng, giao dịch là những thỏa thuận hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm
pháp luật, không trái đạo đức xã hội, của các bên có năng lực hành vi dân sự
tham gia và đối t-ợng của hợp đồng, giao dịch là có thật. Còn hình thức đ-ợc
thể hiện bằng việc thể hiện những nội dung trên đó là văn bản công chứng.
Các bên tham gia ký vào văn bản thể hiện sự khẳng định những nội dung đó là
ý chí của họ. Việc Công chứng viên chứng nhận chữ ký của các bên tham gia
trong hợp đồng chính là việc chứng nhận hình thức. Công chứng viên chứng
nhận cả hai yếu tố: nội dung văn bản và chữ ký của các bên tham gia. Phân
tích nh- vậy thấy rằng quy định chứng nhận chữ ký của cá nhân thuộc thẩm
quyền của ủy ban nhân dân là bất hợp lý cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
48
Ba là, từ hai hậu quả đã phân tích trên dẫn đến việc nhiều khi giá trị
của văn bản công chứng và văn bản chứng thực bị đồng nhất. Nhìn lại vấn đề
đã phân tích thấy rằng, cùng một công việc mà do hai chủ thể thực hiện và đều
đ-ợc chấp nhận bằng các văn bản khác nhau thì tất nhiên giá trị của các văn
bản đó sẽ bằng nhau. Về mặt lý luận cũng nh- trong các văn bản pháp lý thì
giá trị hai văn bản này hoàn toàn khác nhau. Văn bản công chứng luôn có hai
giá trị: giá trị thi hành và giá trị chứng cứ. Chỉ có Tòa án mới có quyền tuyên
bố vô hiệu văn bản công chứng. Còn văn bản chứng thực đ-ợc thực hiện bởi
hành vi của nhân viên hành chính nên có thể bị hủy bỏ bởi cơ quan hành chính
cấp trên hoặc Tòa án.
Thứ hai: Các quy định về Công chứng viên còn nhiều bất cập. Theo
quy định của Luật Công chứng thì tiêu chuẩn để trở thành Công chứng viên
phải có đủ các điều kiện sau:
Công dân Việt Nam th-ờng trú tại Việt Nam, trung thành với Tổ quốc,
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu
chuẩn sau đây thì đ-ợc xem xét, bổ nhiệm làm Công chứng viên (theo khoản 1
Điều 13):
a) Có bằng cử nhân luật;
b) Có thời gian công tác pháp luật từ năm năm trở lên tại các cơ quan,
tổ chức;
c) Có giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng;
d) Đã qua thời gian tập sự hành nghề công chứng;
đ) Có sức khỏe bảo đảm hành nghề công chứng.
Công chứng viên là một chức danh t- pháp, ng-ời đ-ợc bổ nhiệm làm
Công chứng viên phải có đủ các tiêu chuẩn và điều kiện nhất định. Quy định
nh- trên hoàn toàn hợp lý vì hoạt động công chứng đòi hỏi tính chuyên môn
và chuyên nghiệp cao. Vai trò của Công chứng viên đối với xã hội là rất quan
49
trọng, thông qua hoạt động của mình bảo đảm an toàn pháp lý và tạo ra môi
tr-ờng pháp lý ổn định cho các giao dịch dân sự, kinh tế th-ơng mại của các
cá nhân, tổ chức trong và ngoài n-ớc. Do vậy, một ng-ời muốn trở thành Công
chứng viên để hành nghề công chứng ngoài trình độ chuyên môn nhất định thì
tất nhiên phải đ-ợc đào tạo các kỹ năng nghiệp vụ cơ bản mang tính đặc thù
của nghề công chứng. Nh-ng cũng theo Luật Công chứng lại có những quy
định sau:
Ng-ời đ-ợc miễn đào tạo nghề công chứng:
1. Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; luật s- đã hành nghề
từ ba năm trở lên.
2. Giáo s-, phó giáo s- chuyên ngành luật, tiến sĩ luật.
3. Đã là thẩm tra viên cao cấp ngành tòa án, kiểm tra viên cao cấp
ngành kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao
cấp trong lĩnh vực pháp luật (Điều 15).
Ng-ời đ-ợc miễn đào tạo nghề công chứng quy định tại Điều 15 của
Luật này đ-ợc miễn tập sự hành nghề công chứng (Điều 17).
Ng-ời đ-ợc miễn đào tạo nghề công chứng, đ-ợc miễn tập sự hành
nghề công chứng có quyền đề nghị Bộ tr-ởng Bộ T- pháp bổ nhiệm Công
chứng viên... (khoản 2, Điều 18).
Phân tích các quy định trên nhận thấy sự bất hợp lý trong việc bổ nhiệm
Công chứng viên đối với một số ng-ời khi có các tiêu chuẩn trên. Công chứng
viên, kiểm sát viên, Luật s-... đều là các chức danh t- pháp. Ngoài trình độ
chuyên môn là điều kiện bắt buộc họ đều phải trải qua một khóa học về các kỹ
năng, nghiệp vụ chuyên ngành phù hợp với mỗi đặc thù công việc. Với những
ng-ời không phải trải qua thời gian tập sự chắc chắn khi đ-ợc bổ nhiệm để
làm công việc hoàn toàn khác so với những công việc chuyên môn tr-ớc đây
họ làm thì sẽ không đáp ứng đ-ợc yêu cầu công việc. Với quy định bất hợp lý
50
này, vị trí của Công chứng viên bị hạ thấp đi so với các chức danh t- pháp
khác.
Quy định thời gian tập sự bắt buộc đối với các nhân viên nghiệp vụ đã
có thời gian làm việc trong tổ chức công chứng ngang bằng với thời gian tập
sự của những ng-ời ch-a từng công tác trong lĩnh vực đó cũng là một điều
không hợp lý và không công bằng. Hàng ngày họ trực tiếp giúp Công chứng
viên làm các công việc liên quan trực tiếp đến hoạt động công chứng nên họ
có điều kiện học hỏi, trau dồi kỹ năng nghề nghiệp, nắm bắt đ-ợc quy trình
làm việc... qua đó họ sẽ tích lũy đ-ợc nhiều kỹ năng nghiệp vụ hơn những
ng-ời ch-a từng trải qua công việc này. Thực tế khi họ về tập sự thì họ lại làm
chính những công việc hàng ngày mà họ vẫn làm, chỉ đợi đủ thời gian tập sự
theo quy định của pháp luật là họ đề nghị bổ nhiệm. Nh- thế, đối với những
ng-ời làm việc lâu năm trong nghề công chứng nh-ng ch-a có điều kiện tham
dự lớp học nghề Công chứng viên sẽ rất thiệt thòi, mặt khác khi họ tốt nghiệp
khóa đào tạo nghề công chứng mà đ-ợc bổ nhiệm làm Công chứng viên ngay
sẽ tăng đ-ợc thời gian hành nghề của Công chứng viên, số l-ợng Công chứng
viên cũng sẽ đ-ợc tăng nhanh.
Quy định về trách nhiệm vật chất của Công chứng viên còn nhiều bất
cập. Hiện nay vấn đề này vẫn còn thiếu những điều kiện để thực thi nh-: ch-a
có quy định về mức bảo hiểm mà Văn phòng công chứng phải mua cho Công
chứng viên của tổ chức mình, ch-a xây dựng đ-ợc khung bảo hiểm cho loại
hình này khi có thiệt hại xảy ra. Hiện nay có địa ph-ơng đã quy định khi
thành lập Văn phòng công chứng Công chứng viên phải nộp một số tiền ký
quỹ nhất định để nếu có thiệt hại xảy ra thì lấy số tiền đó bồi th-ờng. Nh- vậy
là không đúng với tinh thần của pháp luật và tất nhiên là trái luật, vì Luật
Công chứng chỉ quy định Văn phòng công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp cho Công chứng viên của tổ chức mình (khoản 7
Điều 32). Cùng thực hiện hoạt động công chứng, nh-ng ở Văn phòng công
chứng thì phải mua bảo hiểm còn ở Phòng Công chứng thì vấn đề này không
51
đ-ợc đặt ra, nh- vậy là không công bằng khi xảy ra thiệt hại do lỗi của Công
chứng viên thì lấy kinh phí ở đâu ra bồi th-ờng, kể cả trong tr-ờng hợp Phòng
Công chứng xây dựng đ-ợc quỹ dự phòng để bồi th-ờng những tr-ờng hợp
này thì cũng không hợp lý vì nhiều khi thiệt hại là rất lớn so với số tiền trong
quỹ dự phòng và không thể bắt mọi ng-ời cùng phải gánh chịu trách nhiệm về
hành vi của một ng-ời. Việc quy định Văn phòng công chứng có nghĩa vụ
mua bảo hiểm chứ không phải là Công chứng viên cũng là quy định không
hợp lý. Vai trò, trách nhiệm của Công chứng viên mang tính cá nhân cao, để
nâng cao trách nhiệm của Công chứng viên khi hành nghề cần phải quy định
bắt buộc Công chứng viên phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp bất kể
Công chứng viên đó hành nghề trong tổ chức hành nghề công chứng nào.
Thứ ba: Hoạt động công chứng mang tính chất dịch vụ, trong đó bao
hàm yếu tố phục vụ. Để sử dụng dịch vụ pháp lý này ng-ời dân và các tổ chức
phải trả một số tiền nhất định và họ nhận đ-ợc một sự phục vụ từ chính những
ng-ời đã đ-ợc họ trả tiền. Do vậy pháp luật cũng phải tạo ra cơ chế để những
ng-ời hành nghề công chứng có khả năng phục vụ đ-ợc ng-ời dân và các tổ
chức đ-ợc tốt nhất. Nhiều quy định trong Luật Công chứng không đáp ứng
đ-ợc yêu cầu này. Theo Luật Công chứng quy định về địa điểm công chứng:
1. Việc công chứng phải đ-ợc thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành
nghề công chứng, trừ các tr-ờng hợp quy định tại khoản 2 điều này.
2. Việc công chứng có thể đ-ợc thực hiện ngoài trụ sở của tổ chức
hành nghề công chứng trong tr-ờng hợp ng-ời yêu cầu công chứng là ng-ời
già yếu không thể đi lại đ-ợc, ng-ời đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành
án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức
hành nghề công chứng (Điều 39).
Luật Công chứng quy định việc công chứng phải đ-ợc thực hiện tại trụ
sở của tổ chức hành nghề công chứng trừ những tr-ờng hợp đ-ợc liệt kê tại
khoản 2 Điều 39. Do vậy, khi ng-ời dân có nhu cầu chứng nhận một hợp
52
đồng, giao dịch bắt buộc họ phải tới trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng.
Quy định trên làm mất đi tính dịch vụ của hoạt động công chứng. Đã là hoạt
động mang tính chất dịch vụ, mà lại quy định mang tính bắt buộc thì không
còn là dịch vụ nữa. Việc chứng nhận tại trụ sở tổ chức công chứng hay không,
không làm mất đi hay làm giảm giá trị của văn bản công chứng, do vậy quy
định về địa điểm chứng nhận công chứng nh- trên là không hợp lý. Hơn nữa
lý do chính đáng mà không thể đến trụ sở của tổ chức công chứng là nh- thế
nào cũng không đ-ợc quy định cụ thể, nó phụ thuộc vào nhận định của mỗi
Công chứng viên. Đây nhiều khi lại là một rào cản, là cơ hội để những ng-ời
có ý đồ xấu lợi dụng sách nhiễu hoặc đòi hỏi vật chất đối với ng-ời có yêu cầu
công chứng ngoài trụ sở.
Hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng không chỉ là hoạt động
của Công chứng viên mà còn bao gồm cả hoạt động của các nhân viên nghiệp
vụ nh-ng hiện nay trong các văn bản pháp luật ch-a có một điều luật nào quy
định về quyền và nghĩa vụ của đối t-ợng này. Thực tế các nhân viên nghiệp vụ
đóng một vai trò quan trọng giúp cho Công chứng viên thực hiện hoạt động
công chứng. Việc không có quy định về quyền và nghĩa vụ của các nhân viên
nghiệp vụ làm cho họ không có cơ sở pháp lý để thực hiện hoạt động của
mình. Trong cả một quy trình từ việc tiếp nhận hồ sơ ban đầu cho đến khâu
cuối cùng là cho ra đời văn bản công chứng thì nhân viên nghiệp vụ có thể
giúp Công chứng viên rất nhiều công việc, nh-ng họ làm việc với t- cách gì,
đ-ợc làm những gì thì pháp luật lại không hề quy định. Nếu cứ nhìn vào các
quy định của pháp luật thì tất cả các khâu trong một quy trình đều do Công
chứng viên thực hiện. Thử giả sử một Văn phòng công chứng gồm một Công
chứng viên, nếu nh- cứ theo những quy định hiện nay thì họ sẽ hoạt động thế
nào? Và sẽ hoàn thành đ-ợc bao nhiêu việc nếu cứ thực hiện máy móc nhluật quy định. Chúng ta cũng thử giả sử trong tr-ờng hợp này Công chứng viên
nhận đ-ợc yêu cầu công chứng ngoài trụ sở thì tại Văn phòng công chứng đó
có yêu cầu công chứng thì ai đ-ợc giải quyết. Từ việc h-ớng dẫn, tiếp nhận hồ
53