Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.63 KB, 112 trang )
Bốn là, xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động công chứng không
đ-ợc làm biến dạng bản chất của hoạt động bổ trợ t- pháp này. Quy mô và sự
phân bố của các tổ chức công chứng phải đ-ợc xây dựng dựa trên nhu cầu
công chứng thực tế. Việc thay đổi phải đ-ợc thực hiện trên cơ sở cân đối lợi
ích giữa ng-ời yêu cầu công chứng với ng-ời thực hiện công chứng cũng nhlợi ích của nhà n-ớc.
Năm là, việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực công chứng phải đảm
bảo đ-ợc hiệu quả quản lý nhà n-ớc đồng thời cũng tạo ra môi tr-ờng pháp lý
ổn định cho sự phát triển chế định công chứng.
Tổ chức và hoạt động công chứng phát triển ở mức độ nào phụ thuộc
vào sự mức độ hoàn thiện pháp luật công chứng. Việc định h-ớng và xây dựng
pháp luật nhằm hoàn thiện chế định pháp luật công chứng trong giai đoạn hiện
nay phải đ-ợc xây dựng dựa trên Chiến l-ợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định h-ớng đến năm 2020 theo Nghị quyết
số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24/5/2005 (gọi tắt là Nghị quyết 48 của
Bộ Chính trị). Công chứng là hoạt động mang tính bổ trợ t- pháp, thông qua
hoạt động chứng nhận của Công chứng viên đối với các hợp đồng giao dịch
tạo ra các chứng cứ hiển nhiên không thể chối cãi giữa các bên tham gia. Khi
có tranh chấp xảy ra, Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền dựa vào các chứng
cứ đó mà không phải xác minh. Vì lẽ đó, việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về bổ trợ t- pháp là một nội dung đ-ợc xác định trong Nghị quyết 48 của
Bộ Chính trị:
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ t- pháp (luật s-,
công chứng, giám định, cảnh sát t- pháp...) theo h-ớng đáp ứng
ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý
của nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ các
hoạt động bổ trợ t- pháp; kết hợp quản lý nhà n-ớc với tự quản của
các tổ chức xã hội nghề nghiệp [19].
78
Pháp luật về công chứng phải đ-ợc xây dựng để đảm bảo tính khả thi
cao, nó phải phù hợp với điều kiện của đất n-ớc. Trong giai đoạn hiện nay
tr-ớc mắt phải hoàn thiện các chế định về quyền sở hữu tài sản của cá nhân và
các tổ chức. Xác định phần tài sản của nhà n-ớc và cơ chế sử dụng trong các
doanh nghiệp nhà n-ớc, công ty cổ phần có vốn của nhà n-ớc. áp dụng khoa
học công nghệ vào hoạt động quản lý xã hội, làm tăng khả năng hoạt động của
công chứng. Với những n-ớc phát triển, họ tạo đ-ợc hệ thống các cơ sở dữ
liệu dùng chung cho các hoạt động trong xã hội thì pháp luật cũng quy định
để Công chứng viên khi hành nghề có quyền tra cứu các thông tin liên quan
đến hoạt động công chứng trên các hệ thống đó. Mặc dù những quy định đó là
tiến bộ nh-ng nếu áp dụng vào điều kiện của n-ớc ta thì lại ch-a phù hợp vì
chúng ta ch-a xây dựng đ-ợc cơ sở dữ liệu để dùng chung, ch-a có đủ kinh
phí để áp dụng mô hình này. Công chứng viên của n-ớc ta vẫn phải dựa vào
các giấy tờ do các cơ quan có thẩm quyền cấp để xác định thông tin liên quan
đến hoạt động công chứng. Việc hoàn thiện pháp luật công chứng phải đặt
trong mối t-ơng quan với trình độ phát triển của nền kinh tế và phù hợp với
các chế định pháp luật khác trong hệ thống pháp luật, phải nằm trong việc
hoàn thiện tổng thể hệ thống pháp luật và phù hợp với lộ trình cải cách t- pháp
cũng nh- cải cách nền hành chính. Và đặc biệt phải bảo đảm yêu cầu xây
dựng Nhà n-ớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, bắt buộc pháp luật n-ớc ta phải hoàn
thiện theo xu h-ớng tiếp cận các tiêu chuẩn chung của thế giới. Việc tham gia
ký kết các điều -ớc quốc tế, thừa nhận nguyên tắc áp dụng các quy tắc xử sự
chung của thế giới, -u tiên áp dụng điều -ớc quốc tế làm cho pháp luật n-ớc
ta tiến dần đến các chuẩn mực quốc tế và bổ sung những tiến bộ mà bản thân
hệ thống pháp luật n-ớc ta ch-a đạt đ-ợc. Quá trình tiếp thu một cách có chọn
lọc những thành tựu lập pháp của thế giới trong trong các lĩnh vực trong đó có
lĩnh vực công chứng qua đó cũng tìm ra đ-ợc những hạn chế, khiếm khuyết
của pháp luật n-ớc ta để có biện pháp khắc phục.
79
Quá trình hoàn thiện chế định công chứng phải đ-ợc thực hiện dựa
trên bản chất của chế định này. Nói cách khác, phải dựa trên sự hoàn thiện của
các yếu tố cấu thành chế định này. Căn cứ theo các yêu cầu trong quá trình
hoàn thiện pháp luật công chứng nh- đã phân tích ở trên, ng-ời viết xin đề
xuất ph-ơng h-ớng hoàn thiện sau:
Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện khái niệm công chứng, chủ thể thực
hiện công chứng và xác định chính xác phạm vi công chứng
Khái niệm công chứng là một vấn đề quan trọng nhất ảnh h-ởng đến
toàn bộ các vấn đề khác liên quan đến chế định công chứng nh- đã phân tích
tại mục 1 của ch-ơng 1. Nh-ng cho đến nay, khái niệm công chứng vẫn chỉ
đ-ợc thể hiện qua các quy định pháp lý. Mặc dù chế định công chứng đã đ-ợc
điều chỉnh bằng văn bản pháp lý có giá trị cao là Luật Công chứng và khái
niệm công chứng theo Luật Công chứng đã đ-ợc hình thành trên cơ sở kế thừa
những -u điểm của những khái niệm công chứng trong các văn bản tr-ớc đó
và có sự tiếp thu những thành tựu trong các công trình khoa học nghiên cứu về
công chứng trong thời gian qua. Nh-ng qua phân tích thì khái niệm này vẫn
ch-a phán ánh đ-ợc chính xác bản chất của công chứng. Do vậy, việc đầu tiên
trong quá trình hoàn thiện chế định này là phải làm rõ khái niệm công chứng
d-ới góc độ lý luận. Khi làm rõ đ-ợc khái niệm này chúng ta mới có cơ sở
truyền tải những nội dung mang tính bản chất của công chứng vào các văn bản
pháp lý một cách chính xác nhất. Dù khái niệm này đ-ợc xem xét d-ới góc độ
nào và đ-ợc biểu đạt ra sao thì vẫn phải chứa đựng những yếu tố mang tính
bản chất của công chứng: Công chứng là hành vi tạo lập và chứng nhận của
Công chứng viên về tính xác thực và tính hợp pháp của các hợp đồng, giao
dịch bằng văn bản; công chứng là một hoạt động xã hội - nghề nghiệp mang
tính dịch vụ công và là hoạt động bổ trợ t- pháp; văn bản công chứng có giá
trị thực hiện và giá trị chứng cứ.
Chủ thể của công chứng cũng là vấn đề cần phải tiếp tục hoàn thiện.
Mặc dù xét d-ới góc độ lý luận hay văn bản pháp lý cho đến nay đều đã khẳng
80
định chính xác chủ thể của hoạt động này là Công chứng viên nh-ng nhiều
quy định liên quan đến vấn đề này vẫn ch-a đ-ợc làm sáng tỏ. Nhất là các quy
định liên quan đến tiêu chuẩn để bổ nhiệm Công chứng viên, trách nhiệm vật
chất của Công chứng viên, ph-ơng thức hành nghề công chứng. Pháp luật phải
tạo ra cơ chế để Công chứng viên phát huy đ-ợc tính chủ động, độc lập, sáng
tạo trong hoạt động của mình. Công chứng viên - chủ thể duy nhất của hoạt
động công chứng ngoài việc phải có đủ các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy
định của pháp luật, bắt buộc phải trải qua khóa đào tạo nghề công chứng. Hiện
nay trong Luật Công chứng quy định một số tr-ờng hợp đ-ợc miễn không phải
trải qua khóa đào tạo nghề công chứng là không hợp lý cần phải thay đổi. Pháp
luật cần phải quy định rõ hậu quả pháp lý của việc công chứng trái pháp luật và
trách nhiệm pháp lý cũng nh- trách nhiệm vật chất của Công chứng viên. Quy
định Công chứng viên phải chịu trách nhiệm vật chất khi việc công chứng do họ
thực hiện gây thiệt hại cho ng-ời yêu cầu công chứng hoặc ng-ời thứ ba bằng tài
sản của chính bản thân Công chứng viên hoặc thông qua một cơ chế chia sẻ rủi
ro và mang tính khả thi cao là bắt buộc Công chứng viên phải mua bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp khi hành nghề công chứng. Xây dựng các quy tắc
đạo đức nghề nghiệp của Công chứng viên, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh
giữa các Công chứng viên, giữa các tổ chức hành nghề công chứng, lấy nhu
cầu công chứng của công dân, các tổ chức là điều kiện tồn tại của mình, lấy số
l-ợng, chất l-ợng sản phẩm dịch vụ công chứng để khẳng định th-ơng hiệu
của Công chứng viên và th-ơng hiệu của tổ chức hành nghề công chứng.
Phạm vi công chứng là một vấn đề quan trọng cần đ-ợc xác định rõ
trong quá trình hoàn thiện. Nó đ-ợc thể hiện ở sự phân chia ranh giới, xác
định phạm vi điều chỉnh của công chứng với các lĩnh vực khác, thể hiện ở
thẩm quyền công chứng và giá trị pháp lý khi áp dụng các quy định pháp
luật... Có nhiều cách để xác định phạm vi công chứng, nó có thể đ-ợc quy
định d-ới dạng liệt kê cụ thể từng dạng, loại việc mà tổ chức hành nghề công
chứng và Công chứng viên phải đảm nhận hay đ-ợc làm hoặc quy định một
81
cách khái quát nhất phạm vi công chứng dựa trên hai yếu tố cơ bản là pháp
luật quy định bắt buộc một số công việc nhất định phải công chứng và sự tự
nguyện yêu cầu công chứng. Theo quan điểm của tác giả luận văn, khi quy
định về phạm vi công chứng, chúng ta không nên sử dụng ph-ơng pháp liệt kê
các công việc. Với ph-ơng pháp này thì phạm vi công chứng đ-ợc thể hiện
một cách cụ thể nhất nh-ng do sự vận động, thay đổi liên tục của các yếu tố
trong xã hội thì sự liệt kê này không đáp ứng đ-ợc yêu cầu trên. Nó tạo ra
những quy định mang tính cứng nhắc, khi gặp những tình huống mới phát sinh
thì không thể giải quyết đ-ợc, làm mất đi tính mềm dẻo, linh hoạt của hoạt
động công chứng. Việc quy định về phạm vi công chứng nên đ-ợc thể hiện
d-ới dạng khái quát nhất, nghĩa là theo cách quy định một số loại hợp đồng,
giao dịch nhất định phải đ-ợc chứng nhận của công chứng và công chứng theo
yêu cầu của cá nhân và tổ chức trong xã hội đối với những loại việc mà pháp
luật không bắt buộc phải công chứng. Xác định phạm vi công chứng theo cách
này thể hiện quan điểm điều tiết, giám sát của cơ quan quản lý nhà n-ớc đối
với một số loại, dạng giao dịch... trong những lĩnh vực nhất định, đồng thời
qua việc quy định sự tự nguyện yêu cầu công chứng đã tạo ra cho cá nhân và
tổ chức một công cụ hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong
tr-ờng hợp xảy ra tranh chấp đối với những hợp đồng, giao dịch mà họ tham
gia hoặc là ng-ời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Thông qua đó khuyến
khích khả năng áp dụng pháp luật một cách chủ động của cá nhân và tổ chức
nhằm thực thi những thỏa thuận đã ký và tạo lập chứng cứ để phục vụ cho
công tác xét xử của cơ quan tài phán mà tr-ớc hết và chủ yếu là của Tòa án
khi có tranh chấp xảy ra.
Thứ hai: Xây dựng thiết chế công chứng theo mô hình hành nghề tự do
và hoàn thiện các quy định về quản lý công chứng. Trong đó nhà n-ớc chỉ
giữ vai trò quản lý, chuyển giao toàn bộ cho tổ chức hành nghề công chứng
Khi đã chuyển sang mô hình hành nghề tự do thì vai trò của nhà n-ớc
chỉ đ-ợc đ-ợc thể hiện ở chức năng quản lý, còn mọi vấn đề khác cần chuyển
82
giao cho tổ chức công chứng (có thể bao gồm cả hiệp hội do các tổ chức này
tự nguyện thành lập có sự chấp nhận của nhà n-ớc) đảm nhận thông qua việc
quy định vị trí và vai trò của chúng trong cơ chế quản lý công chứng. Nh- vậy
phải xác định rằng tổ chức và hoạt động công chứng phải chịu sự điều chỉnh
của hai chủ thể: chủ thể thứ nhất là các cơ quan quản lý nhà n-ớc, chủ thể thứ
hai là tổ chức tự quản nghề nghiệp. Về bản chất, quản lý chính là hành vi tác
động bằng sức mạnh quyền uy của chủ thể quản lý lên đối t-ợng chịu sự quản
lý theo những mục tiêu, trật tự nhất định mà chủ thể quản lý h-ớng tới. Quản
lý có thể đ-ợc thực hiện d-ới nhiều dạng khác nhau, bằng nhiều biện pháp
cũng nh- hình thức tác động không giống nhau. Và nh- vậy quản lý công
chứng chính là việc chủ thể quản lý (có thể là cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền) sử dụng các biện pháp quản lý, d-ới nhiều hình thức tác động nhằm
đảm bảo hệ thống công chứng đ-ợc tổ chức, vận hành theo đúng chức năng,
nhiệm vụ mà pháp luật quy định. Cũng giống nh- các thiết chế khác, cơ chế
quản lý công chứng n-ớc ta vẫn đ-ợc xây dựng theo trục Chính phủ - Bộ Tpháp (Bộ Ngoại giao cũng nh- các bộ, cơ quan ngang bộ) - ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung -ơng - Sở T- pháp có nhiệm vụ giúp việc ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung -ơng thực hiện chức năng quản
lý nhà n-ớc về công chứng. Hiện nay cơ chế quản lý công chứng chỉ thuần túy
do cá nhân, tổ chức thuộc hệ thống cơ quan hành chính nhà n-ớc thực hiện
trong khi cá nhân, tổ chức thuộc hệ thống cơ quan t- pháp hoặc bổ trợ t- pháp
(ngoại trừ vai trò thụ động của Tòa án đ-ợc quy định trong Luật Công chứng)
lại không có bất kỳ một nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, rõ ràng trong công tác
quản lý công chứng, ngoài việc xem xét giá trị pháp lý của văn bản công
chứng, nó phản ánh không đúng bản chất công chứng. Với quan niệm công
chứng là một chế định bổ trợ t- pháp thì phải sửa đổi, bổ sung cơ chế quản lý
công chứng có sự tham gia của các cơ quan t- pháp, cơ quan bổ trợ t- pháp,
quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, rõ ràng của các cơ quan này trong công
tác quản lý công chứng chứ không đơn thuần chỉ là việc xem xét giá trị pháp
83
lý của văn bản công chứng. Mặt khác, công chứng là hoạt động xã hội nghề
nghiệp, là dịch vụ vừa mang tính pháp lý, vừa mang tính dân sự, có liên quan
trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ dân sự, lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham
gia hợp đồng, giao dịch. Chính vì vậy, cần có sự quản lý chặt chẽ không chỉ
của Nhà n-ớc mà còn của cả tổ chức tự quản nghề nghiệp, đảm bảo sự phát
triển đúng định h-ớng, trong khuôn khổ luật định, đồng thời, đảm bảo chất
l-ợng, hiệu quả hoạt động. Hiện nay một số n-ớc trên thế giới đều thành lập
hệ thống tổ chức tự quản nghề công chứng bên cạnh hệ thống cơ quan quản lý
nhà n-ớc về công chứng nh-: Hội đồng công chứng của Cộng hòa Pháp bao
gồm ở cấp tỉnh, cấp khu vực và tối cao 67, tại Ba Lan có Hội đồng công
chứng quốc gia, Nghiệp đoàn công chứng khu vực, Nghiệp đoàn công chứng
cấp huyện 67. ở Trung Quốc có Hiệp hội công chứng toàn quốc (thành lập
ngày 29/3/1990). Đây là một Hội nghề nghiệp độc lập, đại diện cho tiếng nói
và quyền lợi của toàn nghành công chứng Trung Quốc, có t- cách pháp nhân,
có Điều lệ hoạt động 67. Đây cũng đ-ợc coi là xu thế chung của các n-ớc
đang trong giai đoạn thực hiện cải cách thể chế công chứng.
Hoạt động công chứng đã chính thức đ-ợc pháp luật ghi nhận coi là
một nghề tự do nh-ng lại ch-a có những quy định về tổ chức và hoạt động của
hiệp hội nghề nghiệp dành cho công chứng nh- những ngành nghề khác. Do
vậy, bên cạnh việc xây dựng cơ chế quản lý nhà n-ớc, các nhà làm luật phải
xây dựng cơ cấu tổ chức cũng nh- chức năng quản lý mang tính xã hội nghề
nghiệp đối với công chứng. Thay đổi cơ chế quản lý nhà n-ớc về công chứng
trên tất cả lĩnh vực của hoạt động bổ trợ t- pháp này. Nhà n-ớc chỉ quản lý
công chứng ở tầm vĩ mô nh- ban hành chính sách; quy định tiêu chuẩn bổ
nhiệm, miễn nhiệm Công chứng viên; thành lập, giải thể tổ chức hành nghề
công chứng; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; xem xét giá trị
pháp lý của văn bản công chứng.. còn những lĩnh vực thuần túy nghề nghiệp
nên giao lại cho các tổ chức tự quản: xây dựng quy tắc đạo đức hành nghề
công chứng, bồi d-ỡng nghiệp vụ công chứng, các vấn đề nhân sự... Hiện nay
84
chúng ta vẫn duy trì hệ thống tổ chức hành nghề công chứng của nhà n-ớc với
một đội ngũ Công chứng viên, cán bộ Phòng Công chứng là viên chức nhà
n-ớc nên ngoài việc phải chịu sự giám sát của cơ quan có chức năng quản lý
nhà n-ớc đối với công chứng còn phải chịu sự quản lý của cơ quan, cá nhân
khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về công chức, viên chức. Vấn
đề đặt ra là khi có sự tham gia của tổ chức xã hội nghề nghiệp về lĩnh vực
công chứng mà vẫn duy trì mô hình Phòng Công chứng thì phải xây dựng cơ
chế quản lý đội ngũ này nh- thế nào để vừa đảm bảo tính khách quan của một
tổ chức xã hội nghề nghiệp vừa đảm bảo yêu cầu về cán bộ.
Hoàn thiện những vấn đề lý luận mang tính nền tảng và cụ thể hóa
trong các văn bản pháp luật để xây dựng thiết chế công chứng theo mô hình
hành nghề tự do. Việc chuyển dịch hoạt động công chứng mang tính chất
hành chính của nhà n-ớc sang hoạt động mang tính xã hội-nghề nghiệp với sự
tham gia của những ng-ời không phải là công chức, viên chức của nhà n-ớc
phải đ-ợc tiến hành theo lộ trình và đặc biệt không đ-ợc làm mất đi, hay làm
biến dạng bản chất bổ trợ t- pháp của hoạt động này. Định h-ớng phát triển
này là một nội dung của Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến l-ợc cải cách t- pháp đến năm 2020:
Hoàn thiện thể chế công chứng. Xác định rõ phạm vi công
chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây
dựng mô hình quản lý nhà n-ớc về công chứng theo h-ớng Nhà
n-ớc chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có b-ớc đi phù hợp
để từng b-ớc xã hội hóa công việc này [20].
Việc phát triển theo định h-ớng này phải đ-ợc tính toán để tạo ra sự
công bằng lợi ích giữa các bên trong quan hệ (ví dụ nh- quy định về phí và thù
lao công chứng...); phải dựa trên trình độ chung của đội ngũ Công chứng viên
hiện có cũng nh- khả năng phát triển trong t-ơng lai về cả chất l-ợng lẫn số
l-ợng; phải đảm bảo khả năng kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà n-ớc có
thẩm quyền đối với hoạt động công chứng.
85
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
của hoạt động công chứng
3.2.1. Hệ thống hóa pháp luật liên quan đến lĩnh vực công chứng
Trong quá trình tồn tại và phát triển các quy định liên quan đến chế
định công chứng đ-ợc thay đổi bổ sung nhiều lần và đ-ợc thể hiện ở nhiều văn
bản pháp luật thuộc các ngành luật khác nhau. Nội dung nhiều văn bản pháp
luật liên quan mâu thuẫn, chồng chéo lẫn nhau. Nhiều nội dung không còn
phù hợp với điều kiện thực tế. Để hoàn thiện pháp luật liên quan đến công
chứng, việc đầu tiên là phải tiến hành hệ thống hóa pháp luật liên quan đến
chế định pháp luật về công chứng. Thông qua hoạt động này, loại bỏ đ-ợc
những quy định trái với Hiến pháp và các đạo luật, các văn bản mâu thuẫn,
chồng chéo, sơ hở trong pháp luật hoặc không còn phù hợp với điều kiện kinh
tế xã hội, với đ-ờng lối, chủ tr-ơng, chính sách của Đảng và Nhà n-ớc. Khi
tham gia hội nhập quốc tế cũng đòi hỏi pháp luật n-ớc ta trong lĩnh vực công
chứng cũng phải phù hợp với các điều -ớc quốc tế mà chúng ta đã ký kết hoặc
tham gia, phải đảm bảo tính phù hợp t-ơng đối với pháp luật các n-ớc trên thế
giới và xu h-ớng phát triển chung của quốc tế. Trong quá trình tiến hành hệ
thống hóa pháp luật chúng ta có đ-ợc sự đánh giá chung t-ơng đối về hệ
thống pháp luật n-ớc ta nói chung trong lính vực công chứng nói riêng. Những
hạn chế và khiếm khuyết của pháp luật đ-ợc tìm thấy qua quá trình hệ thống
hóa sẽ đ-ợc bổ sung hoặc thay thế bằng các văn bản mới. Yêu cầu đặt ra với
hoạt động này là phải đ-ợc tiến hành th-ờng xuyên hoặc theo định kỳ. Trong
thời đại ngày nay việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động này sẽ
đem lại hiệu quả và chất l-ợng cao.
3.2.2. Cần phân biệt rõ hoạt động công chứng và hoạt động chứng thực
Hoạt động công chứng và chứng thực là hoàn toàn khác nhau về bản
chất, giá trị pháp lý cũng nh- chủ thể tiến hành hai hoạt động này nh- đã phân
tích ở phần 3.1 ch-ơng 2. Việc phân biệt phải đ-ợc quy định rõ trong các văn
86
bản pháp luật về cả chủ thể, phạm vi, giá trị pháp lý của hai hoạt động này.
Trên cơ sở đó chúng ta hoàn toàn tách bạch đ-ợc hoạt động quản lý hành
chính nhà n-ớc với hoạt động mang tính chất nghề nghiệp và mang tính dịch
vụ. Những việc thuộc phạm vi công chứng phải trả về cho công chứng, những
việc thuộc hoạt động chứng thực phải trả về cho ủy ban nhân dân. Quy định
mỗi loại việc chỉ do một cơ quan thực hiện. Khi phân biệt đ-ợc phạm vi của
hai hoạt động này giúp chúng ta tránh đ-ợc những chồng chéo trong quá trình
thực hiện, đồng thời cũng tạo ra cơ chế quản lý, phát triển hoạt động công
chứng, giải quyết đ-ợc các v-ớng mắc cụ thể sau:
- Theo quy định của pháp luật thì ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan
hành chính nhà n-ớc ở địa ph-ơng, thực hiện chức năng quản lý nhà n-ớc.
Theo khoa học lý luận về hành chính thì ph-ơng pháp quản lý đặc tr-ng của
nhà n-ớc th-ờng mang tính chất mệnh lệnh - phục tùng, thể hiện sự bất bình
đẳng trong mối quan hệ giữa các chủ thể. Trong khi đó nguyên tắc cơ bản khi
xác lập các hợp đồng, giao dịch là sự tự nguyện thỏa thuận, sự bình đẳng giữa
các bên tham gia. Việc chứng nhận các hợp đồng này mang tính chất cơ bản là
cung cấp một dịch vụ pháp lý đảm bảo cho các thỏa thuận này đ-ợc thực thi
d-ới góc độ pháp luật. Khi ủy ban nhân dân thực hiện hoạt động chứng nhận
các hợp đồng, giao dịch thì về bản chất cũng phải cung cấp dịch vụ pháp lý,
điều đó là không phù hợp và không có khả năng thực thi khi chức năng chính
của ủy ban nhân dân là hoạt động quản lý nhà n-ớc. Mặt khác, với ph-ơng
thức quản lý đặc tr-ng mang tính mệnh lệnh - phục tùng sẽ dẫn đến tình trạng
lạm quyền, hoặc can thiệp quá sâu vào các quan hệ mang tính dân sự, kinh tế
của các cá nhân và tổ chức, tạo ra sự bất bình đẳng, thiếu khách quan. Hoạt
động cung cấp dịch vụ pháp lý phục vụ cho các cá nhân, tổ chức khi tham gia
giao dịch phải đ-ợc giao cho các tổ chức sự nghiệp hoặc tổ chức nghề nghiệp.
Đó cũng là mục tiêu của cải cách hành chính n-ớc ta trong giai đoạn hiện nay.
- Những công việc thuộc lĩnh vực công chứng cũng đ-ợc giao cho ủy
ban nhân dân thực hiện sẽ tạo ra nhiều đầu mối, thiếu tập trung thống nhất,
87
gây lên tình trạng chồng chéo, không khoa học. Để giải quyết đ-ợc tình trạng
này bắt buộc phải quy định mỗi công việc chỉ do một loại cơ quan giải quyết.
- Về nguyên tắc ủy ban nhân dân làm việc theo chế độ tập thể, khi cá
nhân ký là đại diện cho một tập thể và th-ờng đ-ợc ký theo dạng "thay mặt"
ủy ban nhân dân. Điều này mâu thuẫn với nguyên tắc trách nhiệm cá nhân
của những ng-ời ký chứng nhận hợp đồng, giao dịch. Sự mâu thuẫn này còn
phát sinh khi xử lý trách nhiệm của ng-ời ký, nếu đã ký với t- cách là đại diện
cho ủy ban nhân dân thì không có cơ chế để giải quyết. Nếu công việc đ-ợc
giao cho Công chứng viên của tổ chức công chứng thì sẽ không có sự mâu
thuẫn này.
- Các cán bộ đ-ợc ký ở ủy ban nhân dân th-ờng là những ng-ời đ-ợc
nhân dân bầu ra theo nhiệm kỳ, th-ờng xuyên thay đổi vị trí, làm việc mang
tính chất kiêm nhiệm. Những cán bộ này đ-ợc hình thành từ các ngành khác
nhau, số l-ợng ng-ời có trình độ pháp luật và đ-ợc đào tạo để thực hiện việc
chứng thực rất ít. Do vậy, trình độ chuyên môn chắc chắn sẽ không cao. Để
nâng cao trình độ, hay bồi d-ỡng những kỹ năng nghiệp vụ cũng khó có thể
giải quyết đ-ợc vì họ làm việc không mang tính chuyên nghiệp, hết nhiệm kỳ
họ lại có thể bị thay đổi. Nh- vậy, chất l-ợng của những hợp đồng, giao dịch
nhất là những việc phức tạp đòi hỏi tính chuyên môn cao đ-ợc họ chứng nhận,
về mặt pháp lý sẽ không đ-ợc đảm bảo một cách chính xác.
Khi thực hiện việc phân chia phạm vi công chứng và chứng thực sẽ
xảy ra tình trạng ở những khu vực có khó khăn về kinh tế, vị trí địa lý nên
ch-a có Phòng Công chứng hay Văn phòng công chứng thì những việc đã
đ-ợc phân định thuộc phạm vi công chứng sẽ không thực hiện đ-ợc. Do vậy ở
những nơi này cần có những cơ chế đặc thù: có thể thành lập thêm Phòng
Công chứng đặt ở những nơi này với biên chế tối thiểu hay áp dụng mô hình
một Phòng Công chứng có thể có nhiều điểm công chứng đặt ở nhiều nơi khác
nhau trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung -ơng hoặc trong thời gian
88