Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.63 KB, 112 trang )
có thâm niên tối thiểu một số năm hành nghề luật s- thuộc Hiệp hội Luật shoặc đã có một thời gian làm hộ tịch viên hay cố vấn pháp lý của Giáo hội.
Các nhân viên ngoại giao cũng đ-ợc giao thẩm quyền thực hiện một số việc
liên quan đến công chứng ở n-ớc ngoài. Đặc điểm nổi bật trong hệ thống công
chứng này đ-ợc thể hiện ở việc chứng nhận trong các văn bản chỉ mang tính
hình thức, nên có thể gọi hệ thống này với một cái tên khác là hệ thống công
chứng hình thức. Vì chỉ mang tính hình thức nên việc chứng nhận trên các văn
bản, hợp đồng th-ờng chú trọng đến việc nhận diện đúng ng-ời, ghi đúng thời
gian, địa điểm giao kết hợp đồng, ghi lại sự kiện pháp lý, nội dung thỏa thuận
của các bên hoặc ghi lại ý chí của họ, không quan tâm đến việc xác minh tình
trạng nhân thân, không buộc phải xác định hiện trạng pháp lý của tài sản,
không cần biết thỏa thuận có vi phạm điều cấm của pháp luật, đạo đức hay
không, ng-ời chứng nhận không phải chịu trách nhiệm về nội dung hợp đồng,
không phải bồi th-ờng nếu có điều khoản nào đó trong văn bản, hợp đồng gây
bất lợi cho một bên hoặc gây thiệt hại cho ng-ời thứ ba.
Chính vì chỉ mang tính hình thức lên hệ thống này có những -u điểm
nhất định: đơn giản, mềm dẻo, dễ thích nghi không bị các khuôn mẫu gò bó,
từ đó dẫn đến việc công chứng đ-ợc tiến hành nhanh tạo điều kiện cho các
Văn bản đ-ợc công chứng có điều kiện đ-ợc thực thi nhanh chóng. Hơn nữa,
do ng-ời chứng nhận chỉ chú trọng đến hình thức thì nội dung của các hợp
đồng, giao dịch cũng sẽ rất đa dạng và ng-ời yêu cầu công chứng cũng có
nhiều tự do cho sự lựa chọn của mình. Do nhà n-ớc không thừa nhận một thể
chế công chứng nên vai trò của nhà n-ớc trong việc quản lý các hoạt động xác
nhận hợp đồng, giao dịch rất mờ nhạt. Nội dung hợp đồng, giao dịch do các bên
tự thỏa thuận với nhau. Với trình độ hiểu biết pháp luật của mỗi bên khác nhau,
lợi thế đem lại cho mỗi bên cũng khác nhau và ng-ời chứng nhận không quan
tâm đến nội dung sẽ không bảo đảm đ-ợc sự công bằng trong các hợp đồng,
giao dịch và dẫn đến nhiều tranh chấp. Giá trị của văn bản đ-ợc chứng nhận
rất thấp và không đ-ợc coi là chứng cứ hiển nhiên tr-ớc Tòa án. Và nh- vậy
16
vai trò của công chứng trong việc tạo ra hành lang an toàn pháp lý cho các hợp
đồng, giao dịch, đảm bảo quyền lợi cho các bên không có cơ chế để đảm bảo.
Các n-ớc có công chứng theo mô hình này gồm: V-ơng quốc Anh, các
n-ớc trong Liên hiệp Anh, Hoa Kỳ (trừ bang Louisane), Đan Mạch, ấn Độ,
Hàn Quốc, Thái Lan...
Hệ thống công chứng Collectiviste: các n-ớc theo hệ thống này có một
thể chế công chứng đ-ợc tổ chức khá chặt chẽ, hoạt động chuyên nghiệp bằng
sự bao cấp của nhà n-ớc thông qua việc cấp nhân sách hành chính để đầu tcho cơ sở vật chất, trả l-ơng và hoạt động. Tổ chức công chứng là một cơ quan
nhà n-ớc. Công chứng viên và phần lớn nhân viên là công chức nhà n-ớc,
h-ởng l-ơng từ nguồn ngân sách quốc gia và đ-ợc h-ởng mọi chế độ, chính
sách theo quy chế công chức. Nhà n-ớc can thiệp sâu vào mọi tổ chức và hoạt
động của công chứng do vậy hệ thống công chứng này còn đ-ợc gọi với cái
tên là hệ thống công chứng nhà n-ớc bao cấp. Những ng-ời thực hiện hoạt
động công chứng gồm: Công chứng viên, các công chức khác đ-ợc giao
nhiệm vụ kiêm nhiệm và nhân viên ngoại giao... Nhiệm vụ của họ là chứng
nhận hợp đồng và văn bản, đem lại tính xác thực và tạo ra sự an toàn pháp lý
cho cá nhân, tổ chức, phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật.
Với thiết chế tổ chức và hoạt động nh- trên, Công chứng viên và những
ng-ời đ-ợc giao nhiệm vụ thực hiện công chứng có cơ sở vật chất và điều kiện
làm việc tốt. Họ yên tâm phấn đấu và công tác không bị chi phối bởi quy luật
cạnh tranh của thị tr-ờng. Tạo ra sự bình đẳng trong mọi giao dịch cho cá
nhân và tổ chức. Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ, giá trị thi hành giữa
các bên và đối với cả bên thứ ba; đem lại an toàn và đảm bảo tính hợp pháp
cho các giao dịch; phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật, làm lành
mạnh hóa các quan hệ dân sự, kinh tế, th-ơng mại, góp phần vào sự phát triển
chung của nền kinh tế. Nh-ng cũng chính thiết chế tổ chức và hoạt động theo
mô hình này làm cho mạng l-ới công chứng phát triển chậm, không đáp ứng
17
đ-ợc nhu cầu thực tế. Tạo ra thói quen ỷ lại, thụ động, làm mất đi sự năng
động và sức sáng tạo của ng-ời làm công chứng. Làm gia tăng những căn
bệnh của sự bao cấp đó là: tham nhũng, quan liêu, của quyền, lãng phí, thiếu ý
thức tiết kiệm.
Các n-ớc theo hệ thống này chủ yếu là các n-ớc trong hệ thống xã hội
chủ nghĩa cũ. Hệ thống công chứng này phát triển mạnh nhất vào những năm
từ 1970 đến 1990 bao gồm các n-ớc: Liên Xô (cũ), Ba Lan, Bungari, Hungari,
Cu Ba, Trung Quốc.
Hệ thống công chứng Latin: nhà n-ớc thừa nhận một thể chế công chứng,
Công chứng viên đ-ợc nhà n-ớc trao một phần quyền lực để thực hiện hoạt
động công chứng. Công chứng đ-ợc coi là một nghề và hoạt động này mang
tính dịch vụ công. ở những n-ớc theo hệ thống công chứng này có một hệ
thống pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động công chứng một cách chặt
chẽ, hiệu quả. Khác với các n-ớc theo hệ thống công chứng Anglo-sacxon,
khi chứng nhận Công chứng viên quan tâm nhiều đến nội dung, tính xác thực,
tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch và đ-ợc thể hiện d-ới hình hức văn
bản, do vậy cũng có thể gọi hệ thống này là hệ thống công chứng Luật viết.
Công chứng viên thể hiện tính chuyên nghiệp và trình độ của mình qua việc
hoạt động độc lập, tự chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của mình để
chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch vốn rất
đa dạng và phức tạp. Pháp luật của các n-ớc theo hệ thống này đề cao vai trò
và trách nhiệm của Công chứng viên. Đề cao giá trị của văn bản đ-ợc công
chứng, văn bản công chứng có giá trị chứng cứ hiển nhiên và giá trị thi hành.
Mô hình công chứng này tạo ra cơ chế để phát triển nhanh chóng thể chế
công chứng đồng thời cũng tạo ra an toàn pháp lý và sự bình đẳng cho các bên
tham gia giao dịch. Nh-ng hạn chế của mô hình này là thời gian hoàn thành việc
công chứng quá lâu, làm mất đi cơ hội của ng-ời có yêu cầu công chứng. Hoạt
động công chứng cần nhiều nhân lực và chi phí trong quá trình thực hiện.
18
Hệ thống này tồn tại ở hầu hết các n-ớc thuộc cộng đồng Châu Âu (trừ
Đan Mạch và Anh), Châu Phi (gồm các n-ớc là thuộc địa cũ của Pháp), các
n-ớc Châu Mỹ-Latin, bang Quebec của Canada, bang Luisane của Hoa Kỳ và
một số n-ớc Châu á nh- Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ... Hiện nay, những n-ớc theo
hệ thống công chứng này đã hình thành tổ chức quốc tế của mình, đó là Liên
minh Quốc tế Công chứng Latin (UINL), bao gồm nhiều thành viên ở cả bốn
châu lục: Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi và Châu á.
So với thế giới thì công chứng của n-ớc ta còn quá non trẻ, các n-ớc
khác đã có hàng trăm năm phát triển lên họ đã hình thành đ-ợc một hệ thống
pháp luật đồng bộ, điều chỉnh có hiệu quả lĩnh vực công chứng, cùng với sự
đảm bảo về cơ sở vật chất cho sự phát triển của hoạt động này. Lợi thế mà
chúng ta có đ-ợc đó là nhìn nhận đ-ợc các mô hình công chứng đã từng và
đang tồn tại để xây dựng cho mình một mô hình hoạt động có hiệu quả nhất
phù hợp với điều kiện chính trị kinh tế xã hội của đất n-ớc. Phân tích các hệ
thống công chứng trên thế giới chúng ta thấy rằng, mặc dù ban đầu thực dân
Pháp trong quá trình xâm l-ợc và cai trị cũng đã đ-a ảnh h-ởng của pháp luật
n-ớc họ vào Việt Nam, tất nhiên có cả pháp luật liên quan đến lĩnh vực công
chứng, nh-ng công chứng n-ớc ta thời kỳ đầu giai đoạn đổi mới nền kinh tế
lại mang nặng ảnh h-ởng của hệ thống công chứng Collectiviste. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế, xã hội và thay đổi trong nhận thức của các nhà làm
luật thì các quy định của pháp luật về công chứng n-ớc ta ngày nay đang có
xu h-ớng tiến dần đến hệ thống công chứng Latinh. Nguyên nhân của hiện
t-ợng trên là vì tr-ớc đây, nền kinh tế đ-ợc tổ chức theo mô hình tập trung,
bao cấp và trong quan hệ quốc tế n-ớc ta chủ yếu giao l-u, giao th-ơng với
các n-ớc trong khối xã hội chủ nghĩa lên ảnh h-ởng của pháp luật các n-ớc
trong khối là không tránh khỏi. Sự sụp đổ của hàng loạt các n-ớc trong khối
xã hội chủ nghĩa, sự giao l-u quốc tế trong thời kỳ mới khi n-ớc ta b-ớc vào
thời kỳ đổi mới, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, xu thế xích lại gần
nhau giữa các n-ớc đã làm ảnh h-ởng không nhỏ đến pháp luật của n-ớc nhà,
19
nhất là những chế định pháp luật liên quan đến lĩnh vực quản lý kinh tế trong
đó có chế định pháp luật công chứng.
Qua thời gian dài chế định công chứng đ-ợc điều chỉnh bởi các văn
bản d-ới luật, chứa đựng giá trị pháp lý thấp không t-ơng xứng với vai trò
quan trọng của chế định này trong cuộc sống, hơn nữa vì nó có giá trị thấp nên
trong quá trình áp dụng nó th-ờng bị các văn bản luật có giá trị cao hơn phủ
định. Đến kỳ họp thứ 10 của Quốc hội n-ớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
nam khóa XI thì Luật Công chứng mới đ-ợc thông qua ngày 29 tháng 11 năm
2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Nh- vậy kể từ khi
Thông t- số 574/QLTPK ra đời năm 1987 sau 20 năm hình thành và phát triển
thì thể chế công chứng của n-ớc ta đã có Luật Công chứng để điều chỉnh, đáp
ứng đ-ợc thực tế khách quan đòi hỏi của xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị
tr-ờng có sự giao l-u với quốc tế làm tăng nhanh cả về số l-ợng cũng nh- tính
chất, quy mô các hợp đồng, giao dịch. Qua đó chúng ta cũng thấy rằng Đảng
và Nhà n-ớc ta đã xác định đ-ợc tầm quan trọng của hoạt động công chứng và
vai trò của nó trong đời sống xã hội. Luật Công chứng ra đời mở ra một thời
kỳ mới cho hoạt động công chứng n-ớc ta. Đ-a thể chế công chứng n-ớc ta
tiến gần tới thông lệ và xu thế hiện nay của quốc tế, phù hợp với điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội của đất n-ớc trong quá trình hội nhập. Luật Công
chứng ra đời đã giải quyết đ-ợc một số v-ớng mắc, khắc phục đ-ợc một số
hạn chế, đồng thời tiếp thu đ-ợc một số tiến bộ trong quá trình lập pháp mà
các văn bản pháp luật tr-ớc đó ch-a giải quyết đ-ợc đó là:
Một là, về phạm vi điều chỉnh. Luật Công chứng chỉ điều chỉnh các
vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động công chứng nh-: thẩm quyền công
chứng, Công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, thủ tục công chứng
và quản lý nhà n-ớc về công chứng. Còn hoạt động chứng thực đ-ợc quy định
riêng tại Nghị định 79/2007/ NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ và các
văn bản pháp luật khác. Qua đó phần nào đã phân biệt đ-ợc chủ thể, đối t-ợng
và ý nghĩa pháp lý của hai hoạt động này. Thông qua các quy định trên, nhà
20
n-ớc đã thể hiện quan điểm t-ơng đối khác và mang tính tiến bộ về công
chứng. Sau một thời gian dài can thiệp quá sâu vào tổ chức và hoạt động công
chứng, làm cho thể chế này chậm phát triển và cũng là một nguyên nhân góp
phần tạo nên sự cồng kềnh của bộ máy hành chính thì nhà n-ớc đã tách đ-ợc
hoạt động mang tính dịch vụ công ra khỏi hoạt động hành chính nhà n-ớc, chỉ
giữ lại những hoạt động mang tính chất hành chính đó là hoạt động chứng
thực. Với quy định này đã tạo ra một chuyển biến lớn trong hoạt động công
chứng, chứng thực tác động mạnh mẽ tới xã hội. Tr-ớc đây với quy định thẩm
quyền chứng nhận bản sao là do cả công chứng và chứng thực, cộng với tâm lý
"sính" công chứng đã tạo áp lực lớn lên các cơ quan thực hiện công chứng,
gây nên tình trạng quá tải tại các Phòng Công chứng. Làm mất thời gian và
công sức của ng-ời dân và tổ chức khi có yêu cầu công chứng. Để thực hiện
công việc chứng nhận bản sao các Phòng Công chứng phải giành phần lớn
nhân lực và thời gian làm việc để thực hiện nh-ng vẫn không đáp ứng đ-ợc
nhu cầu. Trong khi đó các công việc khác thuộc lĩnh vực chuyên môn của
công chứng lại không đ-ợc đảm bảo vì không đủ thời gian và số l-ợng nhân
viên để thực hiện những công việc đó. Việc chuyển giao công việc chứng nhận
bản sao và một số công việc khác sang chứng thực là việc làm hợp lý không
những tạo điều kiện cho ng-ời dân và tổ chức khi có yêu cầu mà còn giải
phóng đ-ợc một nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động công chứng.
Hai là, quy định chủ thể của hoạt động công chứng là Công chứng viên.
Với thiết chế tổ chức công chứng theo hình thức công chứng nhà n-ớc nhtr-ớc đây thì vai trò và trách nhiệm của Công chứng viên ch-a đ-ợc làm rõ.
Công chứng viên là công chức nhà n-ớc làm việc tại Phòng Công chứng
h-ởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ theo các quy định pháp luật về công chức.
Thông t- số 574/QLTPK quy định công chứng là việc của cơ quan nhà n-ớc,
đồng nghĩa với việc quy định ng-ời thực hiện là các nhân viên nhà n-ớc. Nghị
định số 45/CP và Nghị định số 31/CP đều ch-a xác định chủ thể của hoạt
động công chứng, nh-ng thông qua các quy định trong hai nghị định này vẫn
21
xác định đó là công việc do các nhân viên nhà n-ớc thực hiện. Đến Nghị định
số 75/2000/NĐ-CP thì chủ thể của hoạt động công chứng đã đ-ợc xác định là
Phòng Công chứng. Mặc dù đã trực tiếp quy định chủ thể nh-ng quy định này
lại thiếu chính xác và bất hợp lý vì hành vi công chứng là hành vi do cá nhân
Công chứng viên thực hiện và Công chứng viên phải chịu trách nhiệm cá nhân
về hành vi công chứng của mình. Công chứng viên là những ng-ời đáp ứng
một số tiêu chuẩn, đ-ợc nhà n-ớc bổ nhiệm và trao cho một số quyền hạn để
thực hiện công việc của mình. Vai trò của Công chứng viên thể hiện ở việc tạo
lập và chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch.
Công việc này bao gồm hai hoạt động: tạo lập và chứng nhận, nó đ-ợc thể
hiện bằng một chuỗi các công việc nghiệp vụ phức tạp nh-: xác định chủ thể,
đối t-ợng, nội dung, tính chất của hợp đồng giao dịch, xác định các quan hệ
pháp lý phát sinh xung quanh một yêu cầu công chứng, hậu quả pháp lý có thể
xảy ra, giúp các bên thể hiện ý chí, nguyện vọng, thỏa thuận bằng văn bản,
đảm bảo phù hợp với pháp luật, không trái với đạo đức xã hội đối với những
hợp đồng, giao dịch mà Công chứng viên phải tự soạn văn bản hoặc kiểm tra,
t- vấn, góp ý để các bên thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của mình một
cách rõ ràng, chính xác trong các văn bản do họ tự lập. Đây là những công
việc phức tạp đòi hỏi sự tinh thông và kinh nghiệm nghề nghiệp cộng với sự
khách quan, vô t- khi thực hiện công việc của Công chứng viên. Trên cơ sở
các hợp đồng, giấy tờ đã đ-ợc lập, Công chứng viên chứng kiến sự ký kết giữa
các bên và chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao
dịch và thể hiện bằng việc ghi lời chứng theo hình thức và nội dung do pháp
luật quy định và ký tên, đóng dấu của tổ chức công chứng nơi mình hành nghề
vào văn bản đó. Nh- vậy, chủ thể của hoạt động này chỉ có thể là Công chứng
viên chứ không thể là Phòng Công chứng đ-ợc. Luật Công chứng quy định
chủ thể của hoạt động công chứng là Công chứng viên là hợp lý, khoa học về
cả mặt lý luận lẫn thực tiễn làm cho vai trò của Công chứng viên đ-ợc đánh
giá một cách chính xác, khách quan và đ-ợc nâng cao trong quá trình thực
22
hiện, đó cũng là cơ sở để xác định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Công
chứng viên.
Thứ ba, quan điểm về hoạt động công chứng đã có sự thay đổi. Từ tr-ớc
đến nay cả trong t- duy pháp lý của nhà làm luật lẫn cách hiểu của ng-ời dân
đều quan niệm công chứng là hoạt động của nhà n-ớc và do các cá nhân đ-ợc
nhà n-ớc trao quyền thực hiện hay nói đơn giản là do nhân viên nhà n-ớc thực
hiện. Và trên thực tế, tr-ớc khi Luật Công chứng ra đời thì công chứng Việt
Nam đ-ợc tổ chức và hoạt động theo mô hình công chứng nhà n-ớc. Theo đó,
Phòng Công chứng là cơ quan nhà n-ớc, Công chứng viên v các nhân viên
Phòng Công chứng là công chức, viên chức nhà n-ớc, h-ởng l-ơng từ ngân
sách nhà n-ớc, nhà n-ớc đảm bảo toàn bộ cơ sở vật chất cho hoạt động công
chứng. Chế định công chứng đ-ợc gọi là công chứng nhà n-ớc. Hoạt động công
chứng nặng về tính hành chính, coi nhẹ tính chất phục vụ, làm sai lệch bản
chất công chứng. Nhất là trong giai đoạn đầu tổ chức và hoạt động công chứng
của n-ớc ta chịu sự ảnh h-ởng sâu sắc, chủ yếu của thể chế công chứng của
Liên Xô cũ và các n-ớc trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, điều kiện kinh tế - xã
hội ch-a hoàn toàn thoát khỏi cơ chế kế hoạch hóa và tập trung quan liêu bao
cấp, các giao dịch về dân sự, kinh tế, th-ơng mại trong xã hội mặc dù không
còn bị hạn chế tối đa nh- tr-ớc nh-ng ch-a thực sự phát triển, nhu cầu về
công chứng của các cá nhân, tổ chức không cao. Vai trò của công chứng ch-a
đi sâu vào đời sống xã hội, ch-a thực sự là một hoạt động bổ trợ t- pháp.
Thực tế cho thấy, hoạt động công chứng mang tính chất xã hội - nghề
nghiệp, là một hoạt động bổ trợ t- pháp có vai trò hỗ trợ, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân và các tổ chức trong các giao dịch dân sự, kinh tế,
th-ơng mại; phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật; hỗ trợ quản lý nhà
n-ớc, góp phần đảm bảo ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy các giao l-u dân sự,
kinh tế, th-ơng mại phát triển. Nó không phải là hoạt động mang tính chất điều
hành - chấp hành nh- các hoạt động hành chính, không mang đặc tr-ng quyền
lực nhà n-ớc, mà là hoạt động mang tính dịch vụ công (chúng ta có thể hiểu
23
một cách khái quát về dịch vụ công đó là những hoạt động vì lợi ích cộng đồng,
xã hội, nhà n-ớc, công dân do cả nhà n-ớc và t- nhân thực hiện), nó không phải
là hoạt động quản lý nhà n-ớc mà là công cụ để nhà n-ớc thực hiện việc quản
lý. Và nh- vậy, khẳng định hoạt động công chứng là một loại dịch vụ công, do
đó cũng có thể do nhà n-ớc và t- nhân cùng đảm nhiệm. Tính tính dịch vụ công
của hoạt động công chứng thể hiện qua việc: Công chứng viên và tổ chức hành
nghề công chứng thực hiện việc cung cấp dịch vụ pháp lý còn cá nhân, tổ chức
có thể yêu cầu Công chứng viên hoặc tổ chức hành nghề công chứng cung cấp
dịch vụ công chứng khi họ có nhu cầu và ng-ời yêu cầu công chứng phải thanh
toán một khoản phí và chi phí nhất định khi sử dụng các dịch vụ đó. Ngoài
những khoản phí do nhà n-ớc quy định thì các bên còn tự do thỏa thuận về các
chi phí khác (chi phí soạn thảo hợp đồng, chi phí đi lại khi thực hiện công
chứng ngoài trụ sở...). Tính dịch vụ vẫn đ-ợc thể hiện trong cả trong tr-ờng hợp
nếu pháp luật quy định những loại giao dịch nhất định phải đ-ợc công chứng thì
cá nhân, tổ chức cũng có quyền lựa chọn Công chứng viên và tổ chức hành
nghề công chứng cung cấp dịch vụ công chứng. Trong mối quan hệ này cả bên
cung cấp và bên đ-ợc cung cấp dịch vụ pháp lý đều bình đẳng với nhau. Mặt
khác, khi quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức yêu cầu công chứng bị
xâm hại do hành vi công chứng gây ra thì Công chứng viên, với t- cách là ng-ời
cung cấp dịch vụ có trách nhiệm phải bồi th-ờng những thiệt hại đó. Hoạt động
công chứng đã đ-ợc coi là một nghề và Công chứng viên thực hiện công việc
của mình tại tổ chức hành nghề công chứng. Với quy định tại Luật Công chứng
thì tổ chức hành nghề công chứng đã đ-ợc mở rộng, gồm có Phòng Công chứng và
Văn phòng công chứng (Điều 23). Theo đó, Phòng Công chứng là đơn vị sự nghiệp
thuộc Sở T- pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng (khoản 2, Điều 24). Còn
Văn phòng công chứng thì đ-ợc quy định:
1. Văn phòng công chứng do Công chứng viên thành lập.
Văn phòng công chứng do một Công chứng viên thành lập đ-ợc tổ
chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp t- nhân. Văn phòng công
24
chứng do hai Công chứng viên trở lên thành lập đ-ợc tổ chức và hoạt động
theo loại hình công ty hợp danh.
Ng-ời đại diện theo pháp luật của Văn phòng công chứng là Tr-ởng
Văn phòng. Tr-ởng Văn phòng công chứng phải là Công chứng viên.
2. Văn phòng công chứng có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, hoạt
động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ kinh phí đòng góp
của Công chứng viên, phí công chứng, thù lao công chứng và các nguồn thu
hợp pháp khác.
Chính phủ quy định con dấu của Văn phòng công chứng.
3. Tên gọi của Văn phòng công chứng do Công chứng viên lựa chọn
nh-ng phải bao gồm cụm từ "Văn phòng công chứng", không đ-ợc trùng hoặc
gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề công chứng khác, không đ-ợc sủ
dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa và thuần phong
mỹ tục của dân tộc (Điều 26).
Nh- vậy, chế định công chứng n-ớc ta đ-ợc đánh dấu bởi hai mốc quan
trọng trong quá trình hình thành và phát triển. Nếu nh- Thông t- số 574/ QLTPK
ngày 10/10/1987 của Bộ T- pháp đ-ợc coi nh- là khai sinh ra hệ thống công
chứng nhà n-ớc thì Luật Công chứng khai sinh ra công chứng t-. Từ đây, lần
đầu tiên t- nhân đ-ợc tham gia trực tiếp vào hoạt động vốn là độc quyền của
nhà n-ớc. Luật Công chứng ra đời là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện xã hội
hóa công chứng theo định h-ớng chuyển dần hệ thống công chứng nhà n-ớc
thành công chứng theo đúng nghĩa là một ngành nghề tự do hoạt động trong
một tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà n-ớc, phát huy đ-ợc mọi nguồn lực của xã hội trong sự phát triển của
công chứng, đồng thời làm tăng hiệu quả của hoạt động công chứng và nâng
cao vai trò công chứng trong đời sống xã hội. Trong lĩnh vực công chứng nhà
n-ớc chỉ nên giữ vai trò quản lý, tiến tới chuyển giao toàn bộ cho tổ chức hành
nghề công chứng.
25
Công chứng n-ớc ta hiện nay bị điều chỉnh bởi Luật Công chứng và các
văn bản pháp luật chuyên ngành khác chứa đựng các quy định liên quan đến lĩnh
vực công chứng nh-: Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Tố tụng năm 2004,
Luật Đất đai năm 2003, Luật Nhà ở năm 2005, Nghị định số 70/2001/NĐ-CP
ngày 03/10/2001 của Chính phủ... Sở dĩ có nhiều những quy định nh- vậy là vì
hoạt động này liên quan đến rất nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội
và tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của nền kinh tế. Nhìn chung các văn
bản pháp luật trên chủ yếu điều chỉnh các vấn đề sau:
- Quy định hình thức hợp đồng, giao dịch phải có chứng nhận của công
chứng hoặc chứng thực. Đây là quy định phổ biến nhất trong các văn bản pháp
luật nêu trên. Nó chỉ ra các quan hệ hợp đồng, giao dịch bắt buộc phải có
chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực. Chẳng hạn, nh- tại Bộ luật Dân
sự năm 2005 quy định về hình thức giao dịch:
Trong tr-ờng hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải đ-ợc thể
hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc
xin phép thì phải tuân theo các quy định đó (khoản 2 Điều 124)
Quy định về hình thức thế chấp tài sản: "Việc thế chấp tài sản phải
đ-ợc lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp
đồng chính. Trong tr-ờng hợp pháp luật có quy định thì văn bản thế chấp phải
đ-ợc công chứng, chứng thực hoặc đăng ký" (Điều 343).
Luật Đất đai năm 2003 quy định: "Hợp đồng chuyển đổi quyền sử
dụng đất của hộ gia đình, cá nhân phải có chứng thực của Uỷ ban nhân dân
xã, ph-ờng, thị trấn nơi có đất hoặc chứng nhận của công chứng nhà n-ớc"
(đoạn 2 điểm b khoản 1 Điều 126).
Hiện nay trong các quy định của pháp luật thì những việc bắt buộc
phải công chứng ch-a đ-ợc quy định một cách cụ thể. Nói cách khác, chúng
ta ch-a xác định đ-ợc phạm vi công chứng, nhiều việc vẫn đ-ợc thực hiện
bằng cả hai hình thức công chứng và chứng thực. Nguyên nhân của tình trạng
26