Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.65 KB, 106 trang )
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NSNN VÀ QUẢN LÝ
CHI NSNN Ở VIỆT NAM
1.1 Cơ sở lý luận về ngân sách Nhà nước
1.1.1 Khái niệm ngân sách Nhà nước
Trong hệ thống tài chính công, ngân sách nhà nước là khâu tài chính tập trung giữ
vị trí chủ đạo. Ngân sách nhà nước cũng là khâu tài chính được hình thành sớm nhất, nó
ra đời tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ thống quản lý nhà nước và sự phát
triển của kinh tế hàng hoá tiền tệ. Cho đến nay, thuật ngữ “ ngân sách nhà nước”được sử
dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế xã hội ở mọi quốc gia. Song, quan niệm về ngân sách
nhà nước lại chưa thống nhất. Trên thực tế, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân
sách nhà nước không giống nhau tuỳ theo quan điểm của người định nghĩa thuộc các
trường phái kinh tế khác nhau hoặc tuỳ theo mục đích nghiên cứu khác nhau.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển thì ngân sách nhà nước là
một văn kiện tài chính, mô tả các khoản thu và chi của chính phủ được thiết lập hàng
năm.
Ở Việt Nam, ít nhất cũng có những nghĩa khác nhau về ngân sách nhà nước :
Giáo trình quản lý tài chính nhà nước tác giả Hồ Xuân Phương – Lê Văn Ái,
NXB Tài chính Hà Nội 2000: ngân sách nhà nước là một phạm trù kinh tế lịch sử gắn
liền với sự ra đời của nhà nước, gắn liền với kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Nói một cách
khác, sự ra đời của nhà nước, sự tồn tại của kinh tế hàng hoá tiền tệ như những điều
kiện cần và đủ cho sự phát sinh tồn tại của kinh tế hàng hoá tiền tệ những điều kiện
cần và đủ cho sự phát sinh tồn tại của ngân sách nhà nước. Hai tiền đề nói trên xuất
hiện rất sớm trong lịch sử, nhưng thuật ngữ ngân sách nhà nước lại xuất hiện muộn
hơn, vào buổi bình minh của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Thuật ngữ này
chỉ các khoản thu và các khoản chi của nhà nước được thể chế hoá bằng pháp luật;
thực hiện quyền lập pháp về ngân sách nhà nước (quyết định về các khoản thu, các
khoản chi, tổng số thu, tổng số chi ..) còn quyền hành pháp giao cho chính phủ thực
4
hiện. Trong thực tế vai trò điều hành ngân sách của chính phủ rất lớn nên còn thuật
ngữ “ngân sách chính phủ “ mà thực ra là nói tới “Ngân sách nhà nước”.
Theo Ông Tào Hữu Phùng và Ông Nguyễn Công Nghiệp tác phẩm Đổi mới
Ngân Sách Nhà Nước, NXB Thống kế Hà Nội năm 2000 thì “ NSNN là dự toán (kế
hoạch) thu – chi bằng tiền của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định (phổ
biến là một năm).
Giáo trình quản lý tài chính công tác giả Trần Đình Ty, NXB Lao Động Hà Nội
2003: ngân sách nhà nước là dự toán hàng năm về toàn bộ các nguồn tài chính được
huy động cho nhà nước và sử dụng các nguồn tài chính đó nhằm đảm bảo thực hiện
chức năng của nhà nước do Hiến pháp quy định.
Theo Ông Dương Đăng Chính, tác phẩm Giáo trình Quản Lý Tài Chính Công,
NXB Tài chính năm 2007 thì “ NSNN là phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử. Ngân
sách Nhà nước phản ánh các mối quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo
lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia
phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước
trên cơ sở luật định”.
Theo Điều 1 Luật ngân sách nhà nước (01/2002/QH11) thông qua tại kỳ họp thứ
2 Quốc hội khóa 11 ngày 16/12/2002 định nghĩa: “Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các
khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của nhà nước".
Biểu hiện bên ngoài, ngân sách nhà nước là một hệ thống bảng dự toán thu, chi
bằng tiền của nhà nước được cấp có thẩm quyền quyết định trong một khoảng thời
gian nhất định thường là một năm. Chính phủ quyết định dự toán các nguồn thu vào
ngân sách nhà nước, đồng thời dự toán các khoản phải chi cho các hoạt động kinh tế,
chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng...từ quỹ ngân sách nhà nước. Bảng dự toán này
phải được quốc hội phê chuẩn. Như vậy, có thể hiểu ngân sách nhà nước là dự toán (kế
hoạch) thu, chi bằng tiền của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định (phổ biến
là một năm). Cũng cần lưu ý rằng, thu, chi của nhà nước luôn luôn được thực hiện
5
bằng luật pháp và do luật định (về thu có các luật thuế và các văn bản luật khác; về chi
có các chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức). Về ý nghĩa kinh tế, hoạt động thu,
chi của ngân sách thể hiện quá trình phân phối và phân phối lại giá trị tổng sản phẩm
xã hội. Về bản chất xã hội, do nhà nước là đại diện của một giai cấp, nên ngân sách
nhà nước cũng mang tính giai cấp, nó phục vụ trực tiếp cho yêu cầu thực hiện chức
năng của nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Quỹ NSNN là toàn bộ các khoản tiền của Nhà nước, kể cả tiền vay có trên tài
khoản của ngân sách Nhà nước các cấp.
Quỹ NSNN được quản lý tại kho bạc Nhà nước.
1.1.2 Hệ thống NSNN
Hệ thống NSNN được hiểu là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan hệ hữu cơ
với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp ngân sách.
Ở nước ta, tổ chức hệ thống nsnn gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức bộ máy nhà
nước và vai trò, vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước
theo hiến pháp. mỗi cấp chính quyền có một cấp ngân sách riêng cung cấp phương tiện
vật chất cho cấp chính quyền đó thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên vùng lãnh
thổ. Việc hình thành hệ thống chính quyền nhà nước các cấp là một tất yếu khách quan
nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trên mọi vùng lãnh thổ của đất nước.
Chính sự ra đời của hệ thống chính quyền nhà nước nhiều cấp đó là tiền đề cần thiết để tổ
chức hệ thống ngân sách Nhà nước nhiều cấp.
Cấp ngân sách được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền Nhà nước. Nhưng để
có một cấp ngân sách thì phải có một cấp chính quyền với những nhiệm vụ toàn diện,
đồng thời phải có khả năng nhất định về nguồn thu trên vùng lãnh thổ mà cấp chính
quyền đó quản lý.
Phù hợp với mô hình tổ chức hệ thống chính quyền Nhà nước ta hiện nay, hệ thống
NSNN bao gồm Ngân sách Trung ương và Ngân sách các cấp chính quyền địa phương
(Ngân sách địa phương). Ngân sách địa phương gồm:
6
- Ngân sách cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách
cấp tỉnh).
- Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách
cấp huyện).
- Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).
Ngân sách Trung ương phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo nhành và giữ vai trò chủ
đạo trong hệ thống NSNN. Nó bắt nguồn từ vị trí, vai trò của chính quyền Trung ương
được hiến pháp quy định đối với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của
cả nước. Ngân sách Trung ương cấp phát kinh phí cho yêu cầu thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước Trung ương (sự nghiệp văn xã, sự nghiệp kinh tế, an ninh, quốc
phòng, trật tự an toàn xã hội, đầu tư phát triển,…). Nó cón là trung tâm điều hòa hoạt
động Ngân sách của các địa phương. Trên thực tế, NSTW là ngân sách của cả nước, tập
trung đại bộ phận nguồn tài chính quốc gia và đảm bảo các nhu cầu chi tiêu có tính chất
huyết mạch của cả nước. NSTW bao gồm các đơn vị dự toán của cấp này. Mỗi Bộ, cơ
quan TW là một đơn vị dự toán của NSTW. NSĐP là tên chung để chỉ các cấp ngân sách
của các cấp chính quyền bên dưới phù hợp với địa giới hành chính các cấp. Ngoài ngân
sách xã, phường, thị trấn chưa có đơn vị dự toán ra, các cấp ngân sách khác đều bao gồm
một số đơn vị dự toán của cấp ấy hợp thành.
Ngân sách cấp tỉnh phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ, đảm bảo thực hiện
các nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế, xã hội của chính quyền cấp tỉnh và thành
phố trực thuộc Trung ương. Chính quyền cấp tỉnh cần chủ động, sáng tạo trong việc động
viên khai thác các thế mạnh trên địa bàn tỉnh để tăng nguồn thu, đảm bảo chi và thực hiện
cân đối ngân sách của cấp mình.
Ngân sách cấp huyện là một bộ phận của NSĐP do UBND huyện xây dựng quản
lý và Hội đồng nhân dân huyện quyết định, giám sát thực hiện. Nó là kế hoạch thu chi tài
chính của chính quyền cấp huyện để đảm bảo điều kiện vật chất cho việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ bộ máy Nhà nước ở cấp huyện.
7
Ngân sách cấp xã: xã (phường, thị trấn) là đơn vị hành chính cơ sở có tầm quan
trọng đặc biệt và Ngân sách xã cũng có đặc thù riêng: nguồn thu được khai thác trực tiếp
trên địa bàn và nhiệm vụ chi cũng được bố trí để phục vụ cho mục đích trực tiếp của cộng
đồng dân cư trong xã mà không thông qua một khâu trung gian nào. Ngân sách xã là cấp
Ngân sách cơ sở trong hệ thống NSNN, đảm bảo điều kiện tài chính để chính quyền xã
chủ động khai thác các thế mạnh về đất đai, phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn
mới, thực hiện các chính sách xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự trên địa bàn.
Trong hệ thống ngân sách nhà nước ta, Ngân sách Trung ương chi phối phần lớn
các khoản thu và chi quan trọng, còn Ngân sách địa phương chỉ được giao nhiệm vụ đảm
nhận các khoản thu và chi có tính chất địa phương. Quan hệ giữa các cấp ngân sách được
thực hiện theo nguyên tắc sau:
- Ngân sách Trung ương và Ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương (tỉnh,
huyện, xã) được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể.
- Thực hiện việc bổ sung từ ngân sách của chính quyền Nhà nước cấp trên cho
ngân sách của chính quyền Nhà nước cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối
giữa các vùng, các địa phương. Số bổ sung này là khoản thu của ngân sách cấp dưới.
- Trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan quản lý
Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vị chi thuộc chức năng của mình, thì phải chuyển
kinh phí từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó (kinh phí
ủy quyền).
- Không được dùng ngân sách của cấp này chi cho nhiệm vụ của cấp khác (ngoài
việc bổ sung nguồn thu và uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ chi nói trên) trừ trường hợp đặc
biệt theo quy định của chính phủ
1.1.3 Phân cấp quản lý NSNN
1.1.3.1 Sự cần thiết và tác dụng:
8
Chế độ phân cấp và quản lý ngân sách ở nước ta ra đời từ năm 1967, tới nay đã qua
nhiều lần bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định nhằm giải
quyết nhiều vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa ngân sách Trung ương và chính quyền
các cấp trong quản lý ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước được phân cấp quản lý giữa Chính phủ và các cấp chính
quyền địa phương là tất yếu khách quan khi tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước gồm
nhiều cấp. Điều đó không chỉ bắt nguồn từ cơ chế kinh tế mà còn từ cơ chế phân cấp quản
lý về hành chính. Mỗi cấp chính quyền đều có nhiệm vụ cần đảm bảo bằng những nguồn
tài chính nhất định mà các nhiệm vụ đó mỗi cấp đề xuất và bố chí chi tiêu sẽ hiệu quả hơn
là có sự áp đặt từ trên xuống. Mặt khác, xét về yếu tố lịch sử và thực tế hiện nay, trong
khi Đảng và Nhà nước ta đang chống tư tưởng địa phương, cục bộ … vẫn cần có chính
sách và biện pháp nhằm khuyến khích chính quyền địa phương phát huy tính độc lập, tự
chủ, tính chủ động, sáng tạo của địa phương mình trong quá trình phát triển kinh tế, xã
hội trên địa bàn. Có một số khoản thu như: tiền cho thuê mặt đất, mặt nước đối với doanh
nghiệp, tiền cho thuê và tiền bán nhà thuộc sở hữu Nhà nước, lệ phí trước bạ, thuế môn
bài,…giao cho địa phương quản lý sẽ hiệu quả hơn.
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là cách tốt nhất để gắn các hoạt động của
ngân sách nhà nước với cac hoạt động kinh tế, xã hội một cách cụ thể và thực sự nhằm tập
trung đấy đủ và kịp thời, đúng chính sách, chế độ các nguồn tài chính quốc gia và phân
phối sử dụng chúng công bằng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao, phục vụ các mục
tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước đúng đắn và hợp lý không chỉ đảm bảo phương tiện tài chính cho việc duy trì và
phát triển hoạt động của các cấp chính quyền ngân sách từ trung ương đến điah phương
mà còn tạo điều kiện phát huy được các lợi thế nhiều mặt của từng vùng, từng địa phương
trong cả nước. Nó cho phép quản lý và kế hoạch hoá ngân sách nhà nước được tốt hơn,
điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng như quan hệ giữa các cấp ngân
sách được tốt hơn để phát huy vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô của ngân sách nhà
nước. Đồng thời, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước còn có tác động thúc đẩy phân cấp
quản lý kinh tế, xã hội ngày càng hoàn thiện hơn.
9
Tóm lại phân cấp ngân sách đúng đắn và hợp lý, tức là việc giải quyết mối quan hệ
giữa chính quyền Nhà nước trung ương và các cấp chính quyền địa phương trong việc xử
lý các vấn đề hoạt động và điều hành ngân sách nhà nước đúng đắn và hợp lý sẽ là một
giải pháp quan trọng trong quản lý ngân sách nhà nước.
1.1.3.2 Các nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước.
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc giải quyết mối quan hệ giữa các cấp
chính quyền Nhà nước về vấn đề liên quan đến việc quản lý và điều hành ngân sách nhà
nước.
Để chế độ phân cấp quản lý mang lại kết quả tốt cần phải tuân thủ các nguyên tắc
sau đây:
Một là: phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế, xã hội của đất nước. Phân cấp quản
T
7
1
T
7
1
lý kinh tế, xã hội là tiền đề, là điều kiện để thực hiện phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước. Quán triệt nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc giải quyết mối quan hệ vật chất giữa
các cấp chính quyền qua việc xác định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp. Thực chất
của nguyên tắc này là giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ và quyền lợi, quyền lợi phải
tương xứng với nhiệm vụ được giao. Mặt khác, nguyên tắc này còn đảm bảo tính độc lập
tương đối trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở nước ta.
Hai là: ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn lực cơ bản
T
7
1
T
7
1
để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước. Cơ sở của nguyên tắc
này xuất phát từ vị trí quan trọng của Nhà nước trung ương trong quản lý kinh tế, xã hội
của cả nước mà Hiến pháp đã quy định và từ tính chất xã hội hoá của nguồn tài chính
quốc gia.
Nguyên tắc này được thể hiện:
- Mọi chính sách, chế độ quản lý ngân sách nhà nước được ban hành thống nhất và
dựa chủ yếu trên cơ sở quản lý ngân sách trung ương.
10
- Ngân sách trung ương chi phối và quản lý các khoản thu, chi lớn trong nền kinh
tế và trong xã hội. Điều đó có nghĩa là: các khoản thu chủ yếu có tỷ trọng lớn phải được
tập trung vào ngân sách trung ương, các khoản chi có tác động đến quá trình phát triển
kinh tế, xã hội của cả nước phải do ngân sách trung ương đảm nhiệm. Ngân sách trung
ương chi phối hoạt động của ngân sách địa phương, đảm bảo tính công bằng giữa các địa
phương.
Ba là: phân định rõ nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ phần trăm (%)
T
7
1
T
7
1
phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được
cố định từ 3 đến 5 năm. Hàng năm, chỉ xem xét điều chỉnh số bổ sung một phần khi có
trượt giá và một phần theo tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chế độ phân cấp xác định rõ khoản
nào ngân sách địa phương được thu do ngân sách địa phương thu, khoản nào ngân sách
địa phương phải chi do ngân sách địa phương chi. Không để tồn tại tình trạng nhập nhằng
dẫn đến tư tưởng trông chờ, ỷ lai hoặc lạm thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách
địa phương. Có như vậy mới tạo điều kiện nâng cao tính chủ động cho các địa phương
trong bố trí kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời là điều kiện để xác định rõ trách
nhiệm của địa phương và trung ương trong quản lý ngân sách nhà nước, tránh co kéo
trong xây dựng kế hoạch như trước đây.
Bốn là: đảm bảo công bằng trong phân cấp ngân sách. Phân cấp ngân sách phải căn
T
7
1
T
7
1
cứ vào yêu cầu cân đối chung của cả nước, cố gắng hạn chế thấp nhất sự chênh lệch về
văn hoá, kinh tế, xã hội giữa các vùng lãnh thổ.
1.1.3.3 Nội dung phân định nhiệm vụ thu chi của NSNN ta hiện nay:
Trên cơ sở quán triệt những nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN đã trình bày, nội
dung phân định thu, chi NSNN các cấp được thể hiện trên những nét chủ yếu sau đây.
Về nguồn thu:
- Đối với NSTW, nguồn thu bao gồm:
+ Các khoản thu hưởng cả 100%, theo quy định hiện hành.
11
+ Các khoản thu hưởng theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa NSTW và ngân sách cấp
tỉnh, đó là: Thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển thu
nhập ra nước ngoài, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và sử dụng vốn ngân
sách của các DNNN. Chính phủ là người quyết định cụ thể tỷ lệ phần trăm chia các khoản
thu đó và tỷ lệ này được áp dụng thống nhất đối với tất cả các khoản thu được phân chia.
- Đối với NSĐP: Theo quy định hiện hành, thu ngân sách ở mỗi cấp chính quyền
địa phương gồm:
+ Các khoản thu hưởng cả 100%
+ Các khoản thu được hưởng theo tỷ lệ phần trăm chia giữa các cấp ngân sách
(giữa NSTW) và NS tỉnh, giữa NS tỉnh, NS huyện và ngân sách xã). Theo luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật NSNN, các khoản thu phân chia giữa ngân sách các cấp chính
quyền địa phương là: Thuế nhà đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất
nông nghiệp, thu tiền sử dụng đất, thuế tài nguyên, thuế tiêu thụ đặc biệt và lệ phí trước
bạ nhà đất. UBND tỉnh quy định tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu này giữa NS
tỉnh với NS từng quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và ngân sách từng xã, thị trấn.
Trong các khoản thu trên, NS phường được phân chia chung về thuế sử dụng đất nông
nghiệp, lệ phí trước bạ nhà và đất, thuế tài nguyên và thuế tiêu thụ đặc biệt.
Ngoài ra, các khoản thu phân chia giữa NSTW và NS tỉnh, thành phố trực thuộc
TW đều có thể phân chia cho quận, huyện, thị xã, phường tùy theo phân cấp của mỗi tỉnh.
+ Khoản thu bổ sung từ NS cấp trên. Số bổ sung này về cơ bản là ổn định, hàng
năm chỉ điều chỉnh tăng một phần số bổ sung theo tỷ lệ trượt giá và một phần theo tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Chính phủ trình Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội quyết định, phương án
bổ sung từ NSTW cho NS từng tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương. UBND tỉnh
trình HĐND quyết định phương án bổ sung từ NS tinh cho NS huyện và quy định về bổ
sung NS cấp xã.
Về nhiệm vụ chi:
12
Tùy thuộc vào nhiệm vụ được giao và chức trách quản lý của từng cấp chính quyền
Nhà nước, nói chung các cấp NSNN đều thực hiện các nhiệm vụ chi tiêu sau đây:
+ Chi thường xuyên
+ Chi đầu tư phát triển
+ Chi bổ sung cho NS cấp dưới (trừ NS cấp xã)
+ Chi trả nợ gốc tiền vay của NSTW và NS cấp tỉnh
+ Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính (trừ NS cấp huyện và NS cấp xã)
Phân định nhiệm vụ thu chi giữa các cấp NS góp phần khuyến khích các cấp chính
quyền, nhất là chính quyền địa phương, thường xuyên quan tâm đến việc chăm lo bồi
dưỡng, khai thác triệt để các nguồn thu để đáp ứng một cách tốt nhất nhiệm vụ phát triển
kinh tế xã hội của địa phương, đồng thời đóng góp ngày càng nhiều cho NSNN hoặc phấn
đấu giảm dần sự hỗ trợ của NSTW, góp phần giảm bội chi NSNN, đẩy lùi lạm phát và
đáp ứng các nhu cầu tăng chi của Nhà nước trên cơ sở đảm bảo kỷ cương tài chính, ngăn
chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh tùy tiện, tham ô, tham nhũng tiền của Nhà nước và
của nhân dân đóng góp.
1.1.4 Đặc điểm của NSNN
Thứ nhất, có tính pháp lý cao: Các khoản thu chi của ngân sách nhà nước luôn
luôn gắn liền với địa vị pháp lý của nhà nước và quyển lực về kinh tế chính trị của nhà
nước - khiến cho các khoản thu và chi của nhà nước luôn luôn được thực hiện và phải
được tuân thủ nghiêm ngặt.
Thứ hai, hoạt động của ngân sách nhà nước là hoạt động gồm hai mặt thu và chi:
Trong đó thu ngân sách và chi ngân sách đều có ý nghĩa lớn, nhưng thu ngân sách có vai
trò quyết định, chi ngân sách không những góp phần thưc hiện chức năng nhiệm vụ của
nhà nước mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao nguồn thu của ngân sách nhà
nước.
13
Thứ ba, hoạt động của ngân sách nhà nước nhằm phục vu lợi ích chung của toàn
bộ nền kinh tế xã hội, vì sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế xã hội.
Thứ tư, NSNN bao gồm nhiều quỹ tiền tệ khác nhau được phân chia cho phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cấp quản lý nhà nước, nhờ đó việc quản lý
các nguồn thu và chi của Ngân sách Nhà nước sẽ có hiệu quả hơn.
Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc không hoàn trả
trực tiếp là chủ yếu.
1.1.5 Chức năng của NSNN
Trong sự vận động và phát triển của đời sống kinh tế – xã hội, với những diễn biến
kinh tế, vai trò của nhà nước được thay đổi, thì chức năng của ngân sách nhà nước cũng
cần được nhìn nhận lại cho phù hợp với tình hình mới. Ngân sách nhà nước có ba chức
năng:
Một là chức năng phân bổ nguồn lực trong xã hội: Để tạo lập và sử dụng các nguồn
lực có hiệu quả, thông qua các biện pháp thu, chi và quản lý ngân sách nhà nước, nhà
nước thực hiện phân bổ nguồn lực vào những lĩnh vực địa bàn then chốt, có nhiều rủi ro,
cần khuyến khích hoặc hạn chế phát triển; đồng thời có thể thu hút, lôi kéo sự tham gia
phân bổ nguồn lực của các thành phần kinh tế và khu vực tư nhân.
Hai là, chức năng phân phối lại thu nhập trong xã hội: Nhà nước thực hiện quá
trình phân phối và phân phối lại thu nhập dưới hình thức tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp
nhằm hạn chế bớt sự phân hoá xã hội, sự bất bình đẳng về thu nhập đảm bảo sự công
bằng hợp lý, làm cho nguồn thu nhập của xã hội được sử dụng một cách kịp thời hiệu quả.
Thông qua công cụ thuế và công cụ chi tiêu. Nhà nước sẽ thực hiện được các mục tiêu
trên.
Ba là, chức năng điều chỉnh kinh tế: Chính sách ngân sách nhà nước là một bộ
phận không thể tách rời của chính sách kinh tế – xã hội. Khi nền kinh tế suy thoái người
ta thường khuyến cáo dùng chính sách tài khoá kích cầu bằng cách giảm thuế hoặc tăng
chi tiêu công, từ đó làm tăng khối lượng sản xuất xã hội. Khi nền kinh tế phát triển bình
14